Phấn đấu đến năm 2030, giáo dục vùng Đông Nam Bộ thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á

Thiên Ân
20:47 - 18/04/2023
Công dân & Khuyến học trên

Đây là thông tin được đưa ra tại Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, do Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa tổ chức tại tỉnh Bình Dương.

Phấn đấu đến năm 2030, giáo dục vùng Đông Nam Bộ thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á - Ảnh 1.

Hội nghị bàn về tình hình phát triển giáo dục, đào tạo vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2011-2021 và nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo

Phấn đấu đến năm 2030, giáo dục Đông Nam Bộ đứng đầu cả nước và thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á

Báo cáo tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 2011-2022, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc cho biết, quy mô và mạng lưới các cấp học được đầu tư phát triển đồng bộ, đa dạng phù hợp với điều kiện thực tế của các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội học tập cho người dân, góp phần nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho các tỉnh trong vùng và cả nước.

Tính đến nay, toàn vùng có 7.871 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên (tăng 1.007 cơ sở so với năm học 2010-2011).

Công tác xã hội hóa giáo dục tiếp tục phát huy có hiệu quả, thu hút nhiều nguồn lực trong xã hội, cộng đồng chăm lo cho giáo dục.

Phấn đấu đến năm 2030, giáo dục vùng Đông Nam Bộ thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á - Ảnh 2.

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bên cạnh việc tham gia xã hội hóa giáo dục của các nhà đầu tư trong nước, công tác đầu tư giáo dục của nhà đầu tư nước ngoài tại vùng Đông Nam Bộ đang có những chuyển biến tích cực. Một số trường mầm non, phổ thông nhiều cấp học, trường đại học có yếu tố nước ngoài đã được thành lập.

Toàn vùng hiện có 1.671 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ngoài công lập (tăng 948 cơ sở giáo dục so với năm học 2010-2011).

Các địa phương đã chú trọng công tác huy động học sinh nhập học đúng độ tuổi. Tuy vậy một số chỉ tiêu vẫn chưa đáp ứng được như kỳ vọng.

Tỉ lệ huy động trẻ nhà trẻ toàn vùng đứng thứ ba trong sáu vùng kinh tế - xã hội. Tỉ lệ huy động trẻ mẫu giáo đứng thứ năm trong sáu vùng kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng dân số cơ học của vùng, đặc biệt là tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp, đã gây áp lực không nhỏ lên hệ thống giáo dục.

Tỉ lệ học sinh/trường và sĩ số học sinh/lớp của vùng cao nhất cả nước, đặc biệt tỷ lệ học/trường cấp trung học cơ sở cao gấp 2 lần so với trung bình cả nước.

Tỉ lệ kiên cố hóa trường lớp của vùng Đông Nam Bộ là 92,5%, cao hơn so với bình quân chung của cả nước.

Tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia các cấp học tại vùng Đông Nam Bộ tăng dần hằng năm, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với bình quân của cả nước và thấp nhất trong sáu vùng kinh tế - xã hội.

Giáo dục đại học của vùng ngày càng khẳng định vai trò là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước.

Toàn vùng Đông Nam Bộ hiện có 57 trường đại học và 316 cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Nhiều cơ sở giáo dục đại học đã được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. Tỉ lệ sinh viên đại học đứng thứ hai toàn quốc, chỉ sau Đồng bằng sông Hồng.

Bình quân hằng năm, có khoảng hơn 70.000 sinh viên và 6.000 học viên, nghiên cứu sinh tốt nghiệp, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng.

Tỉ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp đạt 86,6% (cao hơn bình quân chung của cả nước).

Tỉ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo của vùng là 29,5% (đứng thứ hai trong sáu vùng kinh tế - xã hội). Tỉ lệ dân số có trình độ đại học trở lên của cả vùng khoảng 6,6%.

Giáo dục và đào tạo Đông Nam Bộ đặt mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đứng đầu cả nước và thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á.

Để đạt được mục tiêu này, các tỉnh/thành phố trong vùng sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm về quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo; về bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục; về điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo; về chất lượng giáo dục các cấp học; về nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; về hợp tác, kết nối và liên kết vùng nhằm phát triển giáo dục và đào tạo; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển giáo dục và đào tạo.

Kiến nghị không thực hiện tinh giản biên chế ngành giáo dục

Chia sẻ về mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo của Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ông Bùi Xuân Cường - Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố cho biết: "Thành phố tiếp tục ưu tiên đẩy mạnh quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo phấn đấu đạt chỉ tiêu 300 phòng học/10.000 dân trong độ tuổi đi học. Phát huy hiệu quả trường chất lượng cao "Trường tiên tiến, hội nhập quốc tế". 100% trường học trên địa bàn thành phố phấn đấu xây dựng theo mô hình trường học thông minh".

Về đội ngũ giáo viên, thành phố sẽ xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, hợp lý và đồng bộ về cơ cấu đội ngũ, đạt chuẩn nghề nghiệp.

Thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu để bảo đảm đủ về cơ cấu, số lượng, chất lượng giáo viên mầm non, phổ thông đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; đổi mới mô hình, phương thức đào tạo giáo viên, gắn việc đào tạo trong các trường sư phạm với hoạt động thực tiễn tại các trường học; thực hiện đào tạo giáo viên theo cơ chế đặt hàng; sắp xếp, bố trí, sử dụng hiệu quả đội ngũ giáo viên hiện có.

Để phát triển giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới, ông Nguyễn Sơn Hùng - Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đề cập tới 5 giải pháp của địa phương này gồm: Thực hiện quy hoạch, định hướng, dự báo phát triển giáo dục và đào tạo đảm bảo bao quát, phù hợp với thực tiễn và khả thi; Đảm bảo quy hoạch quỹ đất cho phát triển giáo dục và đào tạo; Thực hiện có hiệu quả các chính sách đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên; Tăng cường thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập; Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực giáo dục.

Để hỗ trợ giáo dục và đào tạo của vùng và địa phương, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai kiến nghị các Bộ ngành xem xét, tham mưu không thực hiện tinh giản biên chế ngành giáo dục, đặc biệt đối với các địa phương tập trung nhiều khu công nghiệp nhằm đảm bảo đội ngũ đáp ứng nhu cầu học sinh tăng hàng năm rất cao.

Dân số trẻ, khí thế trẻ, nhu cầu phát triển lớn - cơ hội tuyệt vời cho giáo dục

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh 5 vấn đề cấn tập trung để phát triển giáo dục và đào tạo.

Theo đó, Phó Thủ tướng cho rằng cần có triết lý mới, nhận thức mới về đầu tư cho giáo dục, chính sách đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, phương thức dạy và học… trên cơ sở khoa học, dân chủ, tiếp thu kinh nghiệm của thế giới, phù hợp với thực tiễn của đất nước.

Phấn đấu đến năm 2030, giáo dục vùng Đông Nam Bộ thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á - Ảnh 5.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà phát biểu chỉ đạo Hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo

Ngành giáo dục phải quy hoạch mạng lưới hệ thống giáo dục các cấp trên cơ sở quy hoạch quốc gia, vùng, địa phương, có đủ không gian giảng dạy dạy kiến thức văn hoá, thể dục thể thao, đào tạo nghề… nhằm phát triển toàn diện năng lực, kỹ năng của học sinh; định hướng nghề nghiệp phù hợp; góp phần phát hiện và đào tạo nhân tài.

Về phát triển đội ngũ giáo viên, Phó Thủ tướng cho rằng cần "đi trước một bước" trong đổi mới nội dung, mục tiêu, phương pháp đào tạo, cập nhật kiến thức, để đáp ứng yêu cầu Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.

Về vấn đề chính sách xã hội hóa giáo dục, Phó Thủ tướng nêu quan điểm: "Nhà nước chỉ đầu tư, quản lý những gì cần quản lý, đồng thời mở ra không gian sáng tạo, đổi mới chính sách để thu hút, huy động các nguồn lực xã hội vào lĩnh vực giáo dục. Chính sách cho giáo dục không phân biệt công lập và tư nhân".

Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh yêu cầu liên thông trong hệ thống giáo dục, dạy nghề (trung cấp nghề nghiệp, cao đẳng lên đến đại học, sau đại học) để khuyến khích học tập suốt đời, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Trong thế giới kết nối, chia sẻ, ngành giáo dục phải phát huy nội lực, chú trọng thu hút các nhà khoa học, nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài.

Đồng thời, nâng cao hơn nữa chất lượng dạy ngoại ngữ - đây là "giấy thông hành", "hành trang" để lao động Việt Nam hội nhập ra thế giới.

Kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhận định, Đông Nam Bộ là khu vực có nhu cầu học tập lớn, nhu cầu học tập với chất lượng bậc cao. Đây là khu vực bao gồm cả những nấc thang cao nhất của giáo dục, cả những phần thấp nhất của giáo dục. Ở đây vẫn còn tỉ lệ người mù chữ, vẫn còn lớp học tình thương dành cho con em người lao động không có chỗ học.

Phấn đấu đến năm 2030, giáo dục vùng Đông Nam Bộ thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á - Ảnh 6.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ trưởng cho rằng, câu chuyện giáo dục ở vùng nào cũng có 3 phương diện: nhân, nhân lực, nhân tài.

"Chúng ta cần tạo một lớp thị dân mới, những con người ở các đô thị với lối sống kỷ cương, tuân thủ pháp luật, những công dân số và biết sống văn minh trong môi trường đô thị", Bộ trưởng chia sẻ.

Đối với vấn đề nhân lực, Bộ trưởng lưu ý, cần làm tốt Chương trình giáo dục phổ thông 2018, gốc của chất lượng nhân lực không đâu khác phải bắt đầu từ phổ thông.

"Việc này các tỉnh Đông Nam Bộ đang làm tốt, cần cố gắng làm thật tốt hơn nữa", Bộ trưởng nói. Đồng thời cho rằng, trong vấn đề nhân lực tại khu vực này thì nhân lực khoa học, kỹ thuật, công nghệ phải đặt thành hướng ưu tiên trọng tâm.

Còn đối với nhân tài, Bộ trưởng nhắc tới việc phải tập trung phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài trong các lĩnh vực, đặc biệt là công nghệ, kỹ thuật, khoa học, đổi mới, sáng tạo, quản trị, điều hành…

"Miền Đông Nam Bộ có số lượng người trẻ, dân số trẻ, khí thế trẻ, sự phát triển với nhu cầu cao. Đây chính là cơ hội tuyệt vời cho giáo dục, phải thấy đây là niềm vui lớn, cơ hội tuyệt vời cho các nhà giáo dục", Bộ trưởng nhấn mạnh.