Thành phố Hồ Chí Minh: bắt giữ 86 đối tượng lừa đảo rút tiền từ thẻ tín dụng
Các đối tượng này giả danh nhân viên ngân hàng phát hành thẻ tín dụng, gọi điện thoại tư vấn các chủ thẻ tín dụng rút tiền mặt qua phần mềm để chiếm đoạt.
Công an thành phố Hồ Chí Minh cho biết, tối ngày 28/12, Công an quận Tân Bình đã phối hợp với Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Bộ Công an, cùng các đơn vị nghiệp vụ Công an thành phố Hồ Chí Minh, tạm giữ hình sự 86 đối tượng để làm rõ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua mạng viễn thông.
Lực lượng Công an đã tiến hành kiểm tra, khám xét 3 địa điểm: Tầng 1 Tòa nhà Halo Building, số 60 Núi Thành, phường 13, quận Tân Bình; phòng 102 Tòa nhà số 586/8 Cộng Hòa, phường 13, quận Tân Bình; Công ty tại địa chỉ 1039 Cách Mạng Tháng Tám, phường 7, quận Tân Bình.
Công an quận Tân Bình đã thu giữ 109 máy tính để bàn, 67 laptop, 1 máy in, 118 điện thoại di động, 2 xe ô tô, 46 xe gắn máy các loại, 27 thẻ ngân hàng của các đối tượng.
Bước đầu, Cơ quan Công an xác định các đối tượng này giả danh nhân viên ngân hàng để phát hành thẻ tín dụng, gọi điện thoại tư vấn các chủ thẻ tín dụng rút tiền mặt qua phần mềm.
Sau khi nạn nhân đồng ý, các đối tượng yêu cầu chụp hình 2 mặt thẻ tín dụng và cung cấp mã OTP; sau đó chúng thực hiện quẹt thẻ thông qua các gian hàng trên một website để chuyển đổi tiền từ thẻ của nạn nhân sang tài khoản ví điện tử của các đối tượng để chiếm đoạt.
Hiện Công an quận Tân Bình tiếp tục phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ của Bộ Công an tiếp tục đấu tranh làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.
Lừa đảo rút tiền từ thẻ tín dụng có thể bị phạt tù tới 7 năm
Xử phạt hành chính
Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về mức xử phạt hành vi lừa đảo qua mạng cụ thể như sau:
Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
- Trộm cắp tài sản, xâm nhập vào khu vực nhà ở, kho bãi hoặc địa điểm khác thuộc quản lý của người khác nhằm mục đích trộm cắp, chiếm đoạt tài sản;
- Công nhiên chiếm đoạt tài sản;
- Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
- Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản;
- Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
- Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cá nhân, tổ chức, trừ trường hợp vi phạm quy định tại điểm b khoản 3 Điều 21 Nghị định này;
- Dùng thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản;
- Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác;
- Mua, bán, cất giữ hoặc sử dụng tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có;
- Sử dụng, mua, bán, thế chấp, cầm cố trái phép hoặc chiếm giữ tài sản của người khác;
- Cưỡng đoạt tài sản nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Do đó, đối với hành vi lừa đảo rút tiền thẻ tín dụng, người thực hiện hành vi lừa đảo có thể bị phạt lên tới 10.000.000 đồng.
Truy cứu trách nhiệm hình sự
Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung bởi khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), hành vi lừa đảo rút tiền thẻ tín dụng chiếm đoạt tài sản nếu thuộc các trường hợp dưới đây sẽ cấu thành tội phạm hình sự và bị xử phạt tùy vào mức độ vi phạm như sau:
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 - 7 năm: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp.
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.
Đăng nhập để tham gia bình luận
Đăng nhập với
Facebook Google