Kỷ niệm Ngày Thương binh -Liệt sĩ 27/7: Chạm ly với ... liệt sĩ ở đường 19!
Bây giờ, gần sáng, tại ga Diêu Trì, sau 28 năm trời, nhờ Quân đoàn 3 giúp đỡ, tôi mới có thể đưa hài cốt anh trai mình - Liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn, về quê và mới được chạm ly với…anh, trong hoàn cảnh ấy!
Chiếc comancar của Quân đoàn 3 chạy trong đêm đưa tôi từ Pleiku, theo Quốc lộ 19, xuống ga Diêu Trì, lúc 1 giờ sáng. Lúc đi lên Tây Nguyên, tôi cũng đi trên con đường này, theo chiều ngược lại.
Quốc lộ 19 là con đường nổi tiếng. Nó bắt đầu từ cảng Quy Nhơn, xuyên ngang tỉnh Bình Định (68 km), xuyên ngang Gia Lai (171 km) và kết thúc tại Cửa khẩu Lệ Thanh, giáp giới Campuchia. Ga Diêu Trì nằm ở phần đầu con đường này.
Không may, tầu hỏa ra Bắc chậm 2 tiếng! Đi cùng tôi là một sĩ quan thuộc Nhà văn hóa Quân đoàn3, Thượng úy Lương Hải Nhuận và đồng chí lái xe Nguyễn Xuân Soạn.
Thực ra, hai người bạn đường mà tôi vừa kể, nhận lệnh lãnh đạo Quân đoàn 3, hộ tống tôi cùng hài cốt anh trai tôi- liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn, xuống ga Diêu Trì và chỉ được quay về đơn vị sau khi anh em tôi đã lên tầu ra Bắc.
Vì tầu chậm những 2 tiếng, tức là tới 3 giờ sáng, chúng tôi mới có thể chia tay nhau, chúng tôi chọn một quán bia nhỏ bên ga, ăn một chút cho lại sức và đợi tầu.
Vừa định nâng ly, Lương Hải Nhuận kêu lên:
- Không được! Chúng ta không thể chạm ly mà thiếu bác Cẩn.
Rồi không để tôi kịp nói gì, Nhuận ra xe, nâng… anh tôi bằng hai tay, đưa vào quán, đặt lên chiếc ghế nhựa bên bàn. Nhuận bầy đủ cả ly bát trước anh tôi.
- Thế là tròn mâm bốn - Nhuận khẽ nói.
Tôi rơi nước mắt. Anh Cẩn của tôi đó. Anh hai của tôi đó. Bây giờ, anh nằm gọn trong một chiếc túi du lịch, sau một lớp ni lông và một lớp vải liệm!
Phải, anh tôi hy sinh ngày 28 tháng 3 năm 1971 ở Tây Nguyên, lúc tròn 30 tuổi. Anh nhập ngũ năm 1965 và "Đi B" (chiến trường miền Nam) cùng năm. Bây giờ, gần sáng, tại Diêu Trì, sau 28 năm trời, nhờ Quân đoàn 3 giúp đỡ, tôi mới có thể đưa hài cốt anh trai mình rong ruổi về quê và mới được chạm ly với…anh, trong hoàn cảnh ấy!
Nhắc tới Quân đoàn 3, tôi không thể không kể về sự "nghĩa hiệp" của các anh em tại đây, trong việc này.
Số là, khi vào đến Pleiku, tôi có đến làm việc với Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Gia Lai để xin phép cho tôi được bốc mộ anh tôi về Bắc. Một cán bộ phụ trách ở đó cho tôi biết, việc ấy là không thể!
Lý do thứ nhất: Lúc ấy chưa có nghị quyết liên bộ (giữa Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội và Bộ Quốc phòng) cho phép đưa hài cốt liệt sĩ rời nghĩa trang liệt sĩ.
Lý do thứ hai còn phức tạp hơn: "Anh xem! Nếu tất cả các gia đình ngoài Bắc đều đưa hài cốt liệt sĩ về quê, thì các nghĩa trang liệt sĩ ở Miền Nam này trống hết ư?" - anh ấy nói thế.
Phải rồi, thanh niên Miền Nam, chỉ tính thời Thiệu - Kỳ, đã bị Mỹ - Ngụy bắt ép đi lính cho chúng rất đông (60 vạn quân thường trực và hơn 1 triệu Bảo an - Dân vệ), cho nên đa phần các liệt sĩ chống Mỹ trên chiến trường ở phía Nam là người Miền Bắc và "đậm đặc" nhất, là trong các nghĩa trang liệt sĩ.
Về lý, tôi đành chịu! Nhưng về tình thì tôi không biết làm thế nào. Cha tôi đã mất từ năm 1984. Lúc cha tôi mất, mẹ tôi cũng đã 73 tuổi và đến giờ mẹ tôi cũng đã mất được 7 năm! Trước khi mất, cha mẹ tôi đã bao năm ngóng anh tôi về!
Đem nỗi lòng ấy tâm sự với các anh em ở Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, ai cũng ái ngại cho chúng tôi. Rồi cuối cùng, một vị chỉ huy nói lớn:
- Có cách rồi! Chiều nay, Quân đoàn sẽ cử một cán bộ chính sách đi mời người quản trang vào Bộ Tư lệnh để trao đổi. Nếu anh ấy đồng ý giúp thì đêm nay ta bốc mộ bác Cẩn. Bốc xong, xe Quân đoàn chờ sẵn ở chân đồi, lập tức chở bác Cẩn xuống Diêu Trì, mộ phần bác thì cho xây lại như cũ. Còn nếu quản trang không đồng ý, Quân đoàn sẽ giữ anh ấy lại trong doanh trại và ta vẫn thực hiện công việc theo kế hoạch.
May mắn làm sao, người quản trang đồng ý và "kịch bản xấu nhất" đã không phải dùng đến!
Đêm hôm ấy, tôi cùng 3 sĩ quan của Quân đoàn 3: Trần Đức Lan - Đại tá, Chánh Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Trung tá Hà Quân ở Cơ quan Chính trị Quân đoàn và Thượng úy Lương Hải Nhuận - cán bộ Nhà Văn hóa Quân đoàn như tôi đã kể ở trên; bỏ xe máy ở chân đồi sắn cạnh nghĩa trang, trèo tường vào gặp người quản trang. Mọi việc diễn ra như kế hoạch và rồi anh tôi mới đến được Diêu Trì cùng chúng tôi như tôi đang kể…
Trở lại với Diêu Trì.
Thế là cứ mỗi một lần nâng ly, chúng tôi lại cùng chạm vào ly của …anh tôi- Liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn. Mắt ai cũng cay xè và mặt mũi chúng tôi, trong mắt mọi người ở đó lúc ấy, chắc hẳn là khác thường lắm!
Đến một lúc, không thấy ai rót bia cho chúng tôi nữa! Gọi, chỉ có cô chủ quán rón rén và run rẩy tới bên bàn. Cô ấy nói:
- Các em chúng nó nhìn các bác chạm ly mà hãi quá, không đứa nào dám ra nữa! Em cũng thế, nhưng vì các bác gọi nên phải ra vậy! Thật sự là thế nào, các bác ơi?
Khi ấy, tôi đành phải đứng lên và nói rõ sự tình rồi có lời:
- Sự thực là như vậy. Nếu nhà hàng không thuận, chúng tôi xin được dời đi. Còn nếu nhà hàng thông cảm, tôi xin được thắp một nén nhang khấn anh tôi, để anh phù hộ cho nhà hàng ta luôn phát đạt.
Cô chủ quán đáp:
- Chưa biết thì chúng em rất sợ. Giờ biết rồi, không sợ quá nữa. Các bác cứ ngồi cho đến lúc tầu về.
Y hẹn, tôi châm một nén nhang, khấn xin anh tôi phù hộ cho nhà hàng và theo gót cô chủ quán, cắm lên bát hương cầu lộc của họ.
Tầu về, tôi chia tay Nhuận và Soạn, lên tầu cùng hài cốt của anh mình, ra Bắc. Sáng sớm hôm sau, tầu về đến ga Hàng Cỏ. Do đã hẹn trước, vợ tôi đón sẵn ở đó và chúng tôi thuê xe đưa hài cốt anh mình về quê - về xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Tây cũ, nay là Hà Nội. Cũng do hẹn trước mà khi chúng tôi về đến nơi, tại sân vận động xã, các vị lãnh đạo "Quân - Dân - Chính - Đảng" và đông đảo đồng bào Phùng Xá đã chờ sẵn, tiến hành lễ truy điệu và đón anh tôi vào Nghĩa trang Liệt sĩ xã. Kỳ lạ nhất là khi đồng chí Chủ tịch xã đọc xong điếu văn truy điệu, tôi mới biết, hôm ấy cũng là ngày (dương lịch) anh tôi hy sinh! Trước đó, theo tập tục cúng giỗ dân gian, trong đầu tôi chỉ nhớ ngày âm lịch (mùng ba tháng Ba) thôi. Và rồi bỗng nhiên, toàn bộ hương trên chiếc lư lớn như chiếc vạc, cùng bốc cháy, cháy hết cả chân hương, cháy đến bằng mặt cát! Anh tôi giờ đã thực về nhà chăng? Bây giờ, chắc dưới suối vàng, cha mẹ tôi đã có thể bớt ngậm ngùi.
Bây giờ, tất cả các anh em trực tiếp giúp tôi ngày ấy đều đã nghỉ hưu. Tôi cũng vậy. Nhưng cứ đến ngày 28 tháng 3 dương lịch hoặc ngày mùng ba tháng Ba âm lịch, rồi ngày 27 tháng 7 hằng năm, tôi lại không thể không nhớ Quân đoàn 3, con đường 19 và ga Diêu Trì được.
Khi bốc mộ anh tôi, tôi thắp hương, đọc rồi đốt hai bài thơ tôi viết tại Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku trong những ngày chờ di dời hài cốt anh mình, một bài viết về toàn thể 3.000 ngôi mộ liệt sĩ ở đó (có 3 ngôi mộ tập thể!) và một bài viết riêng cho anh Cẩn của tôi.
Tôi được nghe kể rằng một lần, mới đây thôi, đội "Quy tập hài cốt liệt sĩ" của Quân khu 4, đang đi giữa rừng già trên đường Trường Sơn cũ thì thấy tít trên cao, một chiếc võng Ca-pơ-rông đang đung đưa giữa hai cây lớn. Trèo lên, trong võng là... một bộ hài cốt liệt sĩ ta! Họ đoán rằng, thời chống Mỹ, người chiến sĩ này, vì sốt rét hoặc đói giữa rừng, đã buộc võng vào hai cái cây kia, nằm nghỉ và không bao giờ trở dậy nữa! Lâu năm, cây lớn dần và nâng mãi chiếc võng cùng liệt sĩ lên cao!
Hai bài thơ ấy như sau:
1-Văn tế 3000 Liệt sĩ chống Mỹ được táng ở Nghĩa trang liệt sĩ Pleiku, Gia Lai, Tây Nguyên
Ngổn ngang mây trắng trên đầu
Ba ngàn mộ trắng một mầu như mây
Mây trên ấy còn bay muôn thuở
Ba ngàn nay đã bỏ tay chèo
Ba ngàn mãi mãi buông neo
Ba ngàn mãi mãi nằm theo đội hình
Ba ngàn phận, tình ba ngàn khối
Vọng cố hương từ cuối chân giời
Ai người cha mẹ khuất rồi?
Ai người vợ góa con côi đến giờ?
Ai ngã lúc mịt mờ lửa đạn
Còn vùng lên trao bạn lá cờ?
Ai người lạc nước sa cơ
Mười năm thao lược, một giờ buông tay?
Ai đi nhẹ như mây như khói?
Ai đi sau cơn đói dài ngày?
Ai vì sốt rét về đây?
Ai vì lở đá, đổ cây giữa rừng?
Ai vượt thác nửa chừng cạn sức?
Ai bờ khe mép vực sa chân?
Ai người số phận xoay vần
Hùm xanh, báo trắng, voi thần đem đi?
Ai đã chẳng tiếc gì máu nóng
Bỏ thân mình cho sống bạn mình
Rồi đi, không ảnh không hình
Đem sinh mệnh đúc khối tình tặng nhau?
Những ai nghỉ cùng sâu một mộ
Biết tìm đâu cho đủ hình hài?
Chẳng sinh từ một bào thai
Ôm nhau, cốt nhục Đông - Đoài xá chi
Ai đã kịp thầm thì trăng trối
Phút cuối cùng đứt nối lời thiêng?
Ai người lịm tắt trong đêm
Nằm im trên võng mà quên cuộc đời?
Ai người mười tám, đôi mươi?
Ai người tóc bạc? Ai người hoa râm?
Ai là cán? Ai là quân?
Bây giờ trắng xóa quây quần bên nhau.
Ngổn ngang mây trắng trên đầu
Ba ngàn mộ, trắng một mầu như mây.
2-Thơ bên mộ Liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn ở Nghĩa trang Liệt sĩ Pleiku, Gia Lai, Tây Nguyên
Ước gì anh lên đây được
Ngồi nghe em kể chuyện nhà
Ước gì anh lên đây được
Nói cười như những ngày xa
Cha mẹ chúng mình đã khuất
Không ai chống được tuổi già
Anh em yên bề gia thất
Mình anh nhân ảnh nhạt nhòa
Đồng làng giờ ba bốn vụ
Cơm làng thôi độn khoai ngô
Thế mà ngày anh đánh giặc
Lội rừng, lấy sắn làm no
Giờ vải lụa đâu nhiều quá
Làng mình thưa tiếng thoi đưa
Né kén nong tằm cũng ít
Làm nhiều, hàng bán ai mua?
Sông Đáy trước nhà vẫn thế
Mùa này nước màu xanh lơ
Cá tôm càng ngày càng hiếm
Ít ai cất vó đặt lờ
Mỗi bận về sông thấy cát
Em thường nhớ anh ngày xưa
Cao lớn, lông mày lưỡi mác
Sải tay bơi giữa hai bờ
Anh của em là thế đấy
Chỉ thích những con sông đầy
Để lao mình vào nước xiết
Thách cả giời cao đất dày
Bây giờ giời cao đã thắng
Vùi anh vào lòng cao nguyên
Bây giờ đất dày ba thước
Làm sao đưa được anh lên?
Bây giờ em ngồi bên mộ
Dưới lòng đất đỏ là anh
Trên giời, mây bông trắng nõn
Nhởn nhơ trông rất hiền lành
Thế mà lòng giời thuở ấy
Còn sâu hơn ngàn vực sâu
Ngày nào cũng đầy khói lửa
Đêm nào cũng đầy hỏa châu
Từ nay em không tin nữa
Rằng lượng giời rộng vô cùng
Giời mang bao người rất trẻ
Về nơi vô thủy vô chung
Vẫn biết vào cơn gió bụi
Xưa nay mấy kẻ trở về
Vẫn biết các nhà liệt sĩ
Đều vì lẽ sống mà đi
Nhưng trước nấm mồ ruột thịt
Em như người đứt cánh tay
Xin liệm thêm vào dưới ấy
Của em, lời xót thương này!
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.
Đăng nhập để tham gia bình luận
Đăng nhập với
Facebook Google