"Khúc hát miền trời" giúp học sinh "đọc là chơi, chơi mà học"
Trung tá, nhà thơ Phạm Vân Anh đã có nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại được trao giải thưởng. Lần này, cô thử sức với một thể tài mới là thơ thiếu nhi với nhan đề ấn tượng "Khúc hát miền trời".

"Khúc hát miền trời" của Phạm Vân Anh.
Được chia làm 2 phần "Những người bạn trên dải Ngân Hà" và "Chuyện nước nhà", tập thơ "Khúc hát miền trời" không phải là những bài thơ ngẫu hứng, tản mạn, mà là một tập thơ có chủ đề chung xuyên suốt.
Phạm Vân Anh đã có ý thức thử nghiệm một hướng sáng tác mới là dạy sử qua thơ, cung cấp vốn từ qua thơ, giáo dục cho các em tình yêu gia đình, mái trường, niềm tự hào về quê hương đất nước, giáo dục lòng biết ơn những anh hùng liệt sĩ, những người lính biên phòng, người công an khu vực, người thầy lên vùng cao dạy học… đang giữ gìn sự bình yên cho mọi nhà.

Trung tá, nhà thơ Phạm Vân Anh.
Cung cấp vốn từ trong bầu khí quyển của đồng dao, thần thoại…
Bằng những bài thơ thể 3, 4, 5 chữ (một đôi bài 6 chữ) ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc, tác giả đã giúp các em lĩnh hội thêm một số vốn từ ngữ thuộc kiến thức phổ thông (về thế giới động vật, về địa lí, về văn hóa đặc trưng vùng miền…).
Bài "Chuyện nhà ốc" đã giúp các bé tìm hiểu về động vật, trong đó có loài ốc với hàng loạt tên gọi phong phú: Ốc tù và, ốc hương, ốc đĩa, ốc kim, ốc mỡ, ốc len, ốc giáo, ốc môi đỏ, ốc sên… Bài "Đàn cò trắng" thì gợi lên một bức tranh bình yên của miền quê: "Cò ơi xuống/ Thăm làng em/ Lũy tre nghiêng/ Như vẫy gọi… Đòng trổ rồi/Hương lúa tỏa/ Cò bay lả/Trong mênh mông".
Bài "Những người bạn trên dải Ngân hà" lại cung cấp rất nhiều từ ngữ liên quan đến các hành tinh để các bạn nhỏ ghi nhớ một cách tự nhiên như: Mặt trời, Hệ mặt trời, sao Thủy, sao Mộc, sao Thổ, sao Hỏa, sao Hôm, sao Mai, Thiên Vương, Hải Vương, vành nhật hoa, Trái đất, địa cực, xích đạo, hành tinh xanh, chị Hằng, sông Ngân, Thiên hà, Vũ trụ…
"Khúc hát miền trời" là một tập thơ đưa thế giới trẻ thơ vào không khí của đồng dao, cổ tích, truyền thuyết, thần thoại, sử thi; cung cấp thêm một số vốn từ ngữ về tri thức phổ thông cho các em. Đồng thời, gợi ý tưởng về một cách dạy sử qua thơ rất đáng hoan nghênh, khơi gợi niềm tự hào dân tộc và lòng biết ơn với cha mẹ, ông bà cùng những người đã xả thân vì đất nước, dân tộc... Đó chính là một cách "đọc là chơi, chơi mà học" khá độc đáo.

Bài thơ đã trở thành "một khúc đồng dao Hệ mặt trời" cho trẻ em thời hiện đại. Cái hay đó là sự giải thích theo kiểu tương phản nên ấn tượng và nhớ lâu, chẳng hạn: "To lớn nhất nhà sao Mộc đó/ Tốc độ quay chẳng ai sánh bằng/ Mặc chiếc áo cam chạy rất hăng/ Nhưng mãi vẫn là hành tinh khí (…) Có bạn sao Hỏa kỳ lạ nhất/ Tên nóng nhưng giá lạnh vô cùng/ Khi đón bão bụi màu đỏ hồng/ Và lúc hoàng hôn màu xanh dịu".
Nhà thơ Phạm Vân Anh còn giúp các em nhận diện vùng miền bằng cách "dẫn" các em đi tham quan các ngôi trường ở dọc dài đất nước. Đây là ngôi trường miền núi phía Bắc được hiện lên qua từ ngữ, hình ảnh đặc trưng: "Mùa xuân đang "say sán"/ Qua trường em sáng nay/ Tiếng kèn lá vén mây/ Điệu Soong-hao vấn vít cùng vớí: Cây sa mộc ngoài sân/ Vững như ngọn tháp xanh" , "Mận giật mình nở trắng/ Cả đỉnh trời rợp hoa" (Trường em).
Ngôi trường ở Tây Nguyên lại được nhận diện qua các chi tiết văn hóa điển hình: "Lớp học giữa nhà rông", "Tiếng chiêng vui tưng bừng/ Cắc kum cuông... gửi gió!", hình ảnh người thầy được tôn vinh, được ví với cả nhân vật sử thi nổi tiếng: "Thầy như Đam San ấy/ Dạy lẽ phải điều hay/ Lời Hơ Mon ngoài rẫy/ Thơm trang vở hôm nay" (Gọi gió về thung).
Ngay từ bài thơ đầu tiên trong tập "Ngủ giữa miền trời", tác giả đã cho các em được sống với không khí của đồng dao, thần thoại: "Ông Đếm cát/ Ông Tát bể/ Ông Kể sao/ Ông Đào sông/ Ông Xây rú...". Hay qua câu chuyện về nguồn gốc các dân tộc Việt Nam: "Thủa khai thiên lập địa/ Cơn chuyển dạ diệu kỳ/ Từ quả bầu tông tộc/ Thành năm tư anh em" (Quả bầu truyền thuyết). Rồi những truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích được nhắc nhớ qua nhân vật Sơn Tinh, Thủy Tinh (Sông), Lang Liêu với sự tích bánh chưng bánh giầy, Mai An Tiêm (Từ đỉnh Nghĩa Lĩnh).
Không những thế, nhà thơ còn có ý thức giúp các em tìm hiểu văn hóa: nghệ thuật sân khấu dân gian, trò chơi dân gian. Bài "Tên lửa rối" cho các em được tiếp cận với bộ môn múa rối nước độc đáo của người Việt với nhân vật chú Tễu, cô Chàng chàng nổi tiếng. Cảnh các nghệ nhân biểu diễn tích rối "Điện Biên Phủ trên không" và sự háo hức của trẻ thơ khi được xem vở diễn này tại thủy đình ao làng đã được miêu tả cực kì sống động. Bài "Hội làng" lại điểm tên một số trò chơi dân gian: "Đánh đu rồi đấu vật/ Cờ tướng với chọi gà/ Bé xem xong thích quá/ Mùa xuân rộn tiếng ca".

Tác giả của "Khúc hát miền trời" là mong muốn học sinh ghi nhớ một phần sử Việt và truyền cho các em niềm tự hào dân tộc
Gợi một hướng dạy sử và giáo dục niềm tự hào, lòng biết ơn qua thơ
Phần I "Chuyện nước nhà" chính là một cách dạy sử cho học sinh qua thơ một cách sáng tạo. Bằng những bài thơ dễ nhớ, nhà thơ đã truyền cho các em lòng yêu tổ quốc, niềm tự hào về những lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Có thể thấy điều này qua một số bài thơ tiêu biểu. Bài "Em nghe sóng kể" đã mượn lời con sóng Bạch Đằng Giang để kể về những chiến công: Ngô Quyền đánh bay quân Nam Hán, Lê Đại Hành quét sạch quân Tống và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã phá tan 6 vạn quân Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi. Bài "Cờ lau" lại có cách tiếp cận khác: từ một trò chơi đánh trận giả, nhà thơ đã dẫn các em ngược về quá khứ hơn nghìn năm trước để được gặp vị anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, người đã dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn, mở ra nước Đại Cồ Việt và cái tên ấy đã tồn tại qua 3 triều vua.
Nhiều bài thơ đã giúp các em nhớ được rất nhiều tên nhân vật, sự kiện, địa danh, tên núi, tên sông đã đi vào lịch sử. Đó là Vua Hùng gắn với địa danh Phong Châu, Phú Thọ (Từ Đỉnh Nghĩa Lĩnh); là Bà Triệu gắn với địa danh Mê Linh và dòng sông Hát (Tiếng trống ngàn năm); là Lê Lợi gắn với (núi) Lam Sơn, với sông Chu cùng chiến thắng: "Chi Lăng chém đầu tướng giặc, sóng dội Trà Lân, Bồ Đằng" (Thuyền lá); là Lý Thường Kiệt với chiến công "phá Tống bình Chiêm" (Vững âu vàng); là nhà Trần với Hội nghị Diên Hồng, là Hịch tướng sĩ, tinh thần Đông A cùng lời thề Sát Thát khắc lên cánh tay (Phá cường địch); là những địa danh lịch sử như Phú Xuân, Ngọc Hồi, Đống Đa gắn với tên tuổi vua Quang Trung (Hoa đào Thăng Long)…
Với giai đoạn cách mạng sau này, tác giả đã khơi gợi lại lịch sử đầy giản dị qua hình ảnh Bác Hồ với suối Lênin và núi Các Mác (Bác của em rất hiền); là"Rừng Trần Hưng Đạo" - một di tích lịch sử trong bài thơ cùng tên. Khu rừng đó nằm dưới chân núi Slam Cao thuộc tỉnh Cao Bằng, được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt, nơi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Học sinh nắm bắt được kiến thức lịch sử này một cách rất tự nhiên qua những dòng thơ: "Slam Cao sương lạnh sớm nay/ Ba tư chiến sĩ về đây hội thề"; là quảng trường Ba Đình (Mùa thu độc lập); là bến Bình Ca ở Việt Bắc gắn với Chiến dịch Thu Đông (Sông Lô ); là những địa danh Tây Bắc, Điện Biên, Pha Đin (Mường Phăng); là sự kiện 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không (Tên lửa rối); là Dinh Độc Lập với 2 chiếc xe tăng huyền thoại 483 và 390 trong chiến dịch Hồ Chí Minh (Bác xe tăng); là nghĩa trang Trường Sơn nơi những anh hùng, liệt sĩ nằm lại (Em đi thật khẽ)…
Có thể nói, trong phần 2 "Chuyện nước nhà" của tập thơ này, mục đích của tác giả là mong muốn học sinh ghi nhớ một phần sử Việt và truyền cho các em niềm tự hào dân tộc: "Yêu sao trang sử nước nhà/ Nước Nam vang khúc tráng ca hào hùng" (Phá cường địch).

Thơ cho trẻ em cần mượt mà, dễ nhớ, dễ thuộc, gia tăng các vần chính, hạn chế vần thông và bớt đi các vần ép.
Bên cạnh đó, nhà thơ Phạm Vân Anh còn có ý thức định hướng cho các em thể hiện biết ơn những người chiến sĩ đang giữ gìn sự bình yên cho mọi nhà một cách thầm lặng. Hình ảnh người lính biên phòng với những đêm tuần tra đường rừng, đường biển xuất hiện "Mong bố chân dẻo/ Khắp nẻo tuần tra/ Đêm trên chốt lạnh/ Bố có nhớ nhà?" (Thư gửi bố), hay "Xuất kích hừng đông/ Mắt con rạng rỡ/ Mặt trời bé nhỏ/ Tiễn chào tàu đi" (Mặt trời của cha).
Bài "Em đi thật khẽ" lại giáo dục các em một cách tự nhiên về truyền thống uống nước nhớ nguồn, ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ. Những câu thơ sau đã thể hiện rõ sự xúc động, thành kính ấy của học sinh qua cử chỉ cắm hương: "Các chú nằm đây/ Hàng nghiêm, lối thẳng/ Sợ chú đau thêm/ Tay hương nhẹ cắm".
Và nữa, hình ảnh người chiến sĩ công an cũng được tôn vinh, trân trọng trong bài "Chú công an khu vực": "Các chú thức cùng đom đóm/ Qua đêm dài tới bình minh" cùng với những việc làm cụ thể: "Ai vắng nhà quên khoá cửa / Chú nhắc giữ gìn an ninh/ Xóm nào xảy ra tranh cãi/ Chú đến hoà giải phân minh/ Những hộ neo đơn, nghèo khó/ Chú luôn thăm hỏi ân cần/ Thanh niên có anh ngỗ ngược/ Chú gặp, khuyên răn tận tình". Và để rồi:"Ai cũng cảm ơn các chú/ Giữ bình yên cho mọi nhà".
Chúng ta đều biết, nhân hóa là một trong những biện pháp tu từ đạt được hiệu quả nghệ thuật cao khi viết thơ cho thiếu niên nhi đồng. "Khúc hát miền trời" cũng có khá nhiều câu diễn đạt lạ và nhân hóa hay: "Mở mắt thấy làn hương/ Thơm cả vào tiếng hót" hoặc: "Gió mải chơi tung tăng/ Lạc vào vườn em đấy/ Mắt lá lườm ngúng nguẩy/ Ôi bạn này chưa ngoan" (Cuối xuân); Này cọ ơi em hỏi/ Trên ấy có gì vui/ Mà lá cọ lí lắc/ Vểnh tàu nghe gió cười (Rừng cọ); "Em gặp ở Dinh Độc lập/ Hai bác xe tăng thâm trầm/ Hai "chiến hữu thép" huyền thoại/ Trong chiến dịch Hồ Chí Minh/ "Tám Bốn Ba" tên một bác/ Bác kia là "Ba Chín Không" (Bác xe tăng). Hoặc những ví von gần gũi, dễ hiểu: "Đêm gửi sương xuống lá/ Ngày gửi nắng lên cây" (Bình yên); "Nhớ khi xưa/ Con thơ bé/ Mùi của mẹ/ Là sữa thơm/ Là búng cơm/ Mẹ chăm mớm/ Mùi khuya sớm/ Bên rạ rơm" (Mùi của mẹ)…
Thơ cho trẻ em cần mượt mà, dễ nhớ, dễ thuộc. Vì thế, các nhà thơ nên chú ý gia tăng các vần chính, hạn chế vần thông và bớt đi các vần ép.
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.
Đăng nhập để tham gia bình luận
Đăng nhập với
Facebook Google