Hành vi kêu gọi quyên góp rồi ăn bớt tiền từ thiện bị xử lý như thế nào?
Ngày 12/9, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đăng tải hơn 12.000 trang sao kê tiền ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bởi bão số 3. Cộng đồng mạng phát hiện nhiều cá nhân sử dụng hình ảnh thông tin chuyển khoản đã chỉnh sửa nhằm tạo hình ảnh, phông bạt.
Cộng đồng mạng mất ngủ trong đêm sao kê của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Ngày 12/9, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đăng tải hơn 12.000 trang sao kê tiền ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bởi bão số 3. Theo sao kê của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tính đến 17 giờ ngày 12/9, tổng số tiền quyên góp qua tài khoản Vietcombank là 527,8 tỉ đồng.
Ngay lập tức, cư dân mạng ùa vào "check var" và dở khóc dở cười với một số hành vi chỉnh sửa ảnh chụp màn hình thông tin chuyển khoản từ thiện nhằm "phông bạt", tạo hình ảnh. Có trường hợp dùng các ký tự che đi con số, chỉ lộ một phần nhỏ. Tuy nhiên dân mạng đếm ra có tới 8 vị trí bị che, tương ứng với số tiền hàng trăm triệu đồng. Thế nhưng, sao kê lộ ra người này chỉ chuyển 500.000 đồng.
Thậm chí, có những trường hợp chỉnh sửa con số một cách quá đà. Như anh chàng D.H.H khẳng định đã chuyển khoản 30 tỉ đồng tới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhưng khi đối chiếu với danh sách sao kê, con số thực chỉ 30.000 đồng. Một tài khoản khác trên Threads tên D.A cũng tuyên bố đã đóng góp 100 triệu đồng, nhưng sự thật chỉ là 10.000 đồng.
Bên cạnh đó, theo sao kê được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đăng tải, nhiều trường hợp có nội dung chuyển khoản là của các tập thể với số tiền thấp đến đáng ngạc nhiên. Có tập thể chỉ chuyển khoản 1.000-2.000 đồng làm dấy lên lo ngại số tiền từ thiện đã bị ăn bớt, gây bức xúc, xôn xao dư luận.
Từ việc công bố sao kê của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hành vi kêu gọi quyên góp từ thiện rồi ăn bớt bị xử lý như thế nào?
Điều 5 Nghị định 93/2021/NĐ-CP về vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo nghiêm cấm các hành vi:
Cản trở hoặc ép buộc tổ chức, cá nhân tham gia vận động, đóng góp, tiếp nhận, phân phối và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện;
Báo cáo, cung cấp thông tin không đúng sự thật;
Chiếm đoạt; phân phối, sử dụng sai mục đích, không đúng thời gian phân phối, đối tượng được hỗ trợ từ nguồn đóng góp tự nguyện;
Lợi dụng công tác vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện để trục lợi hoặc thực hiện các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Việc tổ chức, cá nhân có hành vi trục lợi từ các khoản từ thiện có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy tố hình sự. Cụ thể:
Về phạt hành chính, theo Điều 10 Nghị định 130/2021/NĐ-CP, phạt tiền từ 5-10 triệu đồng đối với một trong các hành vi:
Để hư hỏng, thất thoát tiền, hàng cứu trợ, trừ trường hợp bất khả kháng do thiên tai, hỏa hoạn;
Sử dụng, phân phối tiền, hàng cứu trợ không đúng mục đích, không đúng đối tượng;
Tráo đổi hàng cứu trợ.
Trường hợp quyên góp tiền của người khác với lý do làm từ thiện nhưng lại không dùng khoản tiền đó cho mục đích từ thiện mà nhằm chiếm đoạt có thể bị phạt tiền từ 2-3 triệu đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp hành vi chiếm đoạt tiền từ thiện có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Căn cứ pháp lý tại Điều 174 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cụ thể như sau:
- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
+ Có tổ chức;
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
Tái phạm nguy hiểm;
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 175 Bộ luật hình sự 2015 cụ thể như sau:
- Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
+ Có tổ chức;
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản
Theo đó, thủ đoạn gian dối trong trường hợp kêu gọi quyên góp từ thiện có thể là đưa ra thông tin giả để làm cho người khác tin và giao tài sản cho người phạm tội. Mức phạt đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể lên đến 20 năm tù, thậm chí là tù chung thân.
Trong trường hợp kêu gọi quyên góp tiền từ thiện, hành vi chiếm đoạt tài sản có thể là hành vi không thực hiện đúng cam kết ban đầu, cũng không trả lại số tiền đã quyên góp bằng các thủ đoạn gian dối như: rút bớt tài sản, giả mạo bằng chứng từ. Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt tù đến 20 năm.
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.
Đăng nhập để tham gia bình luận
Đăng nhập với
Facebook Google