Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông: Không phân chia chi tiết hạng giấy phép lái xe
Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông mới nhất không phân chia chi tiết các hạng giấy phép lái xe, chỉ quy định nguyên tắc phân hạng giấy phép lái xe để bảo đảm tính linh hoạt trong trường hợp có sự thay đổi của các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Quy định nguyên tắc phân hạng giấy phép lái xe
Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ do Bộ Công an chủ trì soạn thảo. Bộ Công an đã gửi dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ mới nhất (lần 3) sang Bộ Tư pháp thẩm định. Một trong những nội dung đáng chú ý tại dự thảo Luật lần này là những quy định về giấy phép lái xe.
So với dự thảo lần 2, dự thảo Luật mới nhất đã có một số quy định thay đổi bảo đảm tính linh hoạt, thống nhất, không chồng chéo, trùng lặp, phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật đồng thời phù hợp với xu hướng, tiến trình chuyển đổi số, tạo thuận lợi cho người dân.
Theo đó, giấy phép lái xe được cấp cho người điều khiển xe mô tô, xe ô tô, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ, phương tiện giao thông thông minh tham gia giao thông đường bộ.
Người khuyết tật điều khiển xe mô tô ba bánh dùng cho người khuyết tật được cấp giấy phép lái xe mô tô; người khuyết tật điều khiển xe ô tô có cơ cấu điều khiển phù hợp với tình trạng khuyết tật được cấp giấy phép lái xe ô tô.
Về thời hạn giấy phép lái xe, dự thảo Luật quy định, giấy phép lái xe mô tô không thời hạn.
Giấy phép lái xe ô tô, máy kéo, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ, phương tiện giao thông thông minh có thời hạn.
Trường hợp xe được thiết kế, cải tạo số chỗ ít hơn xe cùng kiểu loại, kích thước giới hạn tương đương thì hạng giấy phép lái xe được tính theo xe cùng kiểu loại, kích thước giới hạn tương đương.
Giấy phép lái xe có giá trị sử dụng trong phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp; giấy phép lái xe quốc tế và giấy phép lái xe quốc gia phù hợp với loại xe được phép điều khiển do quốc gia là thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về Giao thông đường bộ năm 1968 (Công ước Viên) cấp đối với người nước ngoài; giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển của nước hoặc vùng lãnh thổ mà Việt Nam ký cam kết công nhận giấy phép lái xe của nhau; giấy phép lái xe nước ngoài phù hợp với loại xe được phép điều khiển do quốc gia được công nhận theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Giấy phép lái xe quốc tế là giấy phép lái xe do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các nước tham gia Công ước Viên cấp theo một mẫu thống nhất; có thời hạn không quá 3 năm kể từ ngày cấp và phải phù hợp với thời hạn còn hiệu lực của giấy phép lái xe quốc gia.
Người có giấy phép lái xe quốc tế do các nước tham gia Công ước Viên cấp khi lái xe tham gia giao thông trên lãnh thổ Việt Nam phải mang theo giấy phép lái xe quốc tế và giấy phép lái xe quốc gia được cấp phù hợp với hạng xe điều khiển, còn thời hạn sử dụng; phải tuân thủ pháp luật giao thông đường bộ của Việt Nam.
Người có giấy phép lái xe quốc tế vi phạm pháp luật giao thông đường bộ Việt Nam mà bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn thì thời gian bị tước quyền sử dụng không quá thời gian người lái xe được phép cư trú tại lãnh thổ Việt Nam.
Người Việt Nam hoặc người nước ngoài có thẻ thường trú hoặc thẻ tạm trú tại Việt Nam có giấy phép lái xe do Việt Nam hoặc các nước là thành viên Điều ước Quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên cấp, còn giá trị sử dụng, nếu có nhu cầu được cấp giấy phép lái xe quốc tế.
Như vậy, so với dự thảo Luật lần 2, dự thảo Luật mới nhất không phân chia chi tiết các hạng giấy phép lái xe, chỉ quy định nguyên tắc phân hạng giấy phép lái xe để bảo đảm tính linh hoạt trong trường hợp có sự thay đổi của các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Chính phủ quy định chi tiết về hạng giấy phép lái xe, thời hạn giấy phép lái xe. Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định chi tiết hình thức của giấy phép lái xe và giấy phép lái xe quốc tế; quy định trình tự thủ tục cấp và sử dụng giấy phép lái xe và giấy phép lái xe quốc tế.
Trước đó, tại dự thảo Luật (lần 2), Bộ Công an đề xuất phân hạng giấy phép lái xe mới. Cụ thể, đề xuất bỏ giấy phép lái xe hạng A1, A4, B1, B2, E, FE, FC như Luật Giao thông đường bộ hiện hành, thay vào đó sẽ là các hạng A, A3, B, C1, C.
Nhiều đơn vị, bộ, ngành bày tỏ băn khoăn đối với đề xuất này của Bộ Công an.
Theo Hiệp hội Vận tải ô tô Việt Nam, thay đổi hạng giấy phép lái xe là cần thiết, tuy nhiên ban soạn thảo và cơ quan thẩm định cần rà soát, đối chiếu cụ thể với phân hạng giấy phép lái xe tại Công ước Viên 1968 mà Việt Nam tham gia, xem đã phù hợp hay chưa.
Trong khi đó, Bộ Y tế nhận định, hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tiêu chuẩn sức khỏe của người lái xe đang phân loại theo luật Giao thông đường bộ 2008 và không có vướng mắc. Nếu chỉ đơn thuần là đổi tên gọi hạng giấy phép lái xe, sẽ kéo theo nhiều thủ tục hành chính mà người dân sẽ phải thực hiện như đi đổi lại bằng lái, liên quan đến thay đổi khi liên thông tài khoản định danh điện tử... gây tốn kém cho người dân và xã hội.
Chuyển toàn bộ chương quy định về phương tiện giao thông từ dự thảo Luật Đường bộ sang
Ngoài nội dung liên quan đến giấy phép lái xe, dự thảo Luật cũng đã chuyển toàn bộ chương quy định về phương tiện giao thông từ dự thảo Luật Đường bộ sang để bảo đảm tính thống nhất, không chồng chéo, trùng lặp và phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật.
Đồng thời, Bộ Công an đã thống nhất với Bộ Giao thông vận tải chuyển một số điều luật trong chương vận tải đường bộ liên quan đến bảo đảm trật tự, an toàn phương tiện giao thông đường bộ (có tính chất "động") từ dự thảo Luật Đường bộ sang dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật.
Dự thảo Luật cũng đã bổ sung một số quy định mới phù hợp với xu hướng, tiến trình chuyển đổi số, tạo thuận lợi cho người dân, theo đó, đối với một trong các giấy tờ: giấy phép lái xe, chứng nhận đăng ký xe, chứng nhận kiểm định, chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, trong trường hợp thông tin của các loại giấy tờ nào đã được tích hợp vào tài khoản định danh điện tử, thẻ căn cước theo quy định thì không phải mang theo.
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.
Đăng nhập để tham gia bình luận
Đăng nhập với
Facebook Google