80 năm hành trình tri thức từ bình dân học vụ đến bình dân học vụ số
80 năm Quốc khánh nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta dành ít phút nhìn nhận những giá trị do Bình dân học vụ mang lại, tổng hợp tư liệu về phong trào Bình dân học vụ, và bây giờ là lúc có thể nói một cách khái quát về những gì Bình dân học vụ đã làm được.
BÌNH DÂN HỌC VỤ (1945)
Cả nước vừa tưng bừng, hân hoan trong lễ kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng tới miền núi, từ các vùng công nghiệp tới các vùng hải đảo xa xôi, cờ đỏ sao vàng đã tràn ngập trên mọi lối đi, trên khắp phố phường và thôn bản.
Vào những ngày này năm 1945, toàn dân cũng hừng hực khí thế cách mạng và vô cùng hoan hỉ trong Tết Độc lập đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mặc dù ngày đó đại đa số dân chúng còn nghèo đói, cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, nhưng cờ đỏ sao vàng cũng tràn ngập phố phường và thôn bản.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình lịch sử, và sau đó một ngày, Người đã ký Sắc lệnh thành lập Bình dân học vụ, kêu gọi toàn dân chung tay xóa nạn mù chữ để thoát khỏi tình trạng trên 90% dân số không biết đọc, biết viết và không nắm được 4 phép tính cơ bản. Người yêu cầu sau một năm, trong dân chúng, trẻ em từ 8 tuổi trở lên và tất cả những người trưởng thành đều biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.
Từ tháng 8/1945 đến tháng 8/1946, thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cả nước đã có hơn 2.500.000 người được xóa mù chữ (chiếm tỷ lệ khoảng 12% dân số thời kỳ đó), nhờ các địa phương đã tổ chức được trên 75.000 lớp học bình dân với hơn 96.000 giáo viên tình nguyện, không nhận thù lao dạy học. Chúng ta cần nhớ rằng, trong giai đoạn 1945-1946, Chính phủ lâm thời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải chống lại một lực lượng "thù trong, giặc ngoài" với mọi thủ đoạn nguy hiểm hòng xóa bỏ thành quả cách mạng mà Đảng, Chính phủ và nhân dân vừa mới giành được.
Với danh nghĩa là quân Đồng minh, quân Pháp quay lại miền Nam. Đêm 22, rạng ngày 23/9/1945, chúng nổ súng vào các cơ quan của chính quyền cách mạng ở Sài Gòn, đánh chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và các cơ quan tự vệ thành phố, chính thức góp nên cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến chỉ sau đúng 20 ngày Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập trước nhân dân trong nước và trên thế giới.
Sau khi gây hấn ở Nam Bộ, quân đội thực dân Pháp từng bước tiến ra Bắc, chiếm đóng một số địa điểm ở nhiều thành phố lớn để củng cố quyền lực và sử dụng nhiều biện pháp gây hấn ở Hà Nội, Hải Phòng.
Ngày 21/8/1945, quân đội Tưởng Giới Thạch theo thỏa thuận của phe Đồng Minh đã vào miền Bắc nước ta để giải giáp quân đội Nhật. Hơn 200.000 quân ô hợp của Trung Hoa Dân quốc đã nhũng nhiễu khắp nơi, làm khó dễ cho chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam, đồng thời chúng cho bọn phản động Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh) và Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đông minh Hội) núp bóng, quấy nhiễu và tìm mọi thủ đoạn để lật đổ chính quyền cách mạng.
Trước ngày Tổng khởi nghĩa 19/8/1945, dân nghèo chết đói đầy đường. Hơn 2.000.000 đồng bào đã chết bởi chính sách vơ vét thóc lúa phục vụ chiến tranh của Phát xít Nhật. Sau ngày khởi nghĩa, dân nghèo được cung cấp gạo lấy từ các kho dự trữ của bọn Nhật, đồng thời, những người có miếng ăn hàng ngày đã thực hiện nghiêm chỉnh nhịn một bữa cơm triền miên. Sau 19/8/1945, không còn có người chết đói vạ vật ở vệ đường, xó chợ, gầm cầu, bãi rác... Đó là điều kỳ diệu không tưởng mà chính quyền cách mạng đã thực hiện được. Họ thoát chết đói, nhưng đời sống của họ còn quá nhiều khó khăn.
Trong hoàn cảnh túng bấn tột cùng đó, những thanh niên nam nữ, những ông bà trung niên, áo quần rách mướp. Cái bụng chưa no, phải ra sức tăng gia sản xuất và chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chiến đấu chống kẻ thù xâm lược và điều kỳ diệu thứ hai, độc nhất vô nhị trên thế giới này, là những con người đó ngày nào cũng học để thoát nạn mù chữ.
Ngày 19/12/1946, bọn Pháp chính thức tấn công, mở đầu cho cuộc xâm lược với ý đồ lập lại chế độ cai trị thực dân lần nữa tại Việt Nam. Theo lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân đứng lên kháng chiến, ai có súng thì dùng súng, ai có gươm thì dùng gươm, không có súng gươm thì dùng gậy gộc, nhất tề đứng lên đối đầu với súng máy, đại bác, xe tăng và máy bay của bọn cướp nước.
Tại các thành phố, thị xã và miền xuôi, các cơ quan quản lý nhà nước và lãnh đạo kháng chiến rút lên vùng núi, vùng có địa thế hiểm trở; đồng bào tại các vùng có chính sự ác liệt đều tản cư sang những vùng an toàn. Các lớp bình dân theo các đoàn quân đi chiến đấu, theo các đoàn người tản cư; Tại các vùng có chiến sự, các lớp bình dân ở lại với du kích, với bộ đội địa phương và với những người dân trụ tại quê hương, vừa rào làng chiến đấu, vừa cày cấy đêm hôm vừa học chữ theo khẩu hiệu "đi học bình dân là yêu nước", "mỗi lớp học bình dân là một ổ kháng chiến"...
Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn của Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Trung Quốc... và xem cả trăm cuốn phim của các nước đứng lên chống phát xít Đức. Ấn tượng sâu sắc với tôi là nhân dân lao động ở đâu cũng là những "anh hùng" trong các cuộc chiến sinh tử ác liệt. Song, hầu như chưa thấy tác phẩm nào nói đến việc phát triển học hành giữa bom đạn chiến tranh như Việt Nam. Phải chăng, Bình dân học vụ là hiện tượng độc nhất vô nhị trên thế giới?
Năm 1948, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn phòng ngự, các lớp Bình dân học vụ đã thanh toán nạn mù chữ cho trên 6 triệu người, và đến năm 1952, sau khi giải phóng biên giới phía Bắc được 2 năm, 10 triệu người đã biết đọc, biết viết và biết làm bốn phép tính cơ bản. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân bắt đầu vào giai đoạn tổng phản công. Vậy là, tại thời điểm này, khoảng 50% dân số tầng lớp nông dân và công nhân đã thoát khỏi nạn mù chữ.
Cũng chính trong năm 1952, Ban Bí thư đã ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW, xác định nhiệm vụ mới của ngành Bình dân học vụ là bổ túc văn hóa cho những người đã thoát nạn mù chữ.
Bổ túc văn hóa là phương thức giáo dục quý vào việc nâng cao dân trí. Đến đây, các lớp học Bình dân học vụ được tổ chức song song với các lớp Bổ túc văn hóa. Đến năm 1966, Chính phủ đã có chủ trương tổ chức các loại hình trường Bổ túc văn hóa, mà đối tượng chính là những lao động đang làm việc trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và công nghiệp.
Với những lao động giỏi, những chiến sĩ thi đua và anh hùng lao động, Đảng và Nhà nước có chính sách cho họ học tại các trường Bổ túc công nông, chuẩn bị cho những đối tượng này theo học các trường đại học. Đây là chủ trương "Trí thức hóa công nông" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói tới trong những ngày đầu của chính phủ cách mạng lâm thời.
Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta để ít phút nhìn nhận những giá trị do Bình dân học vụ mang lại. Tổng hợp những tư liệu về phong trào Bình dân học vụ, có thể nói một cách khái quát về những gì Bình dân học vụ đã làm.
1. Bình dân học vụ là một khâu đột phá vào chiến lược "Diệt giặc dốt", nâng cao dân trí, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc, nâng cao năng lực của nhân dân lao động trong công cuộc diệt giặc đói và giặc ngoại xâm có hiệu quả.
2. Dân trí được nâng cao đã trở thành nền tảng cho việc giáo dục ý thức và nghĩa vụ công dân của mỗi người dân trong xã hội. Thông qua việc biết chữ, người dân hiểu rằng, cùng với việc mang lại cơm áo cho dân, Đảng và Nhà nước đã đem đến cho dân nghèo một đời sống văn hóa. Học hành là yếu tố giúp cho người dân tham gia kháng chiến, kiến quốc với tinh thần tự giác, tự nguyện, tự chủ hơn.
3. Xóa nạn mù chữ đã tạo nên một nền tảng văn hóa để trên đó xây dựng ý thức vươn lên trở thành một dân tộc có học, có văn hóa hiện đại, từng bước làm chủ kỹ thuật sản xuất, làm chủ bản thân, có ý hướng về xây dựng một dân tộc thông thái trong tương lai.
4. Giá trị lớn nhất của Bình dân học vụ là khởi đầu cho một cuộc cách mạng giáo dục, trong đó phải kể đến giáo dục người lớn, khai phóng trí tuệ cho mọi người dân, tạo sức mạnh tinh thần, khát vọng vươn lên, tự cường, tự lực để xác lập vị thế vững chắc của dân tộc trong thế giới hiện đại.
BÌNH DÂN HỌC VỤ SỐ (2025)
Ngày 18/11/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói đến "Phong trào Bình dân học vụ số" trong buổi gặp gỡ, nói chuyện với một số nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nhân dịp kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Theo ông, đây là một nhiệm vụ mang tính chiến lược cần làm ngay để toàn dân được phổ cập về tri thức số, kỹ năng số nhằm thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng chuyển đổi số quốc gia.
Phong trào Bình dân học vụ số là sự tiếp nối phong trào Bình dân học vụ 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Thuật ngữ Bình dân học vụ số mang tính ẩn dụ, thể hiện ý tưởng xóa mù tri thức số bằng thuật ngữ Bình dân học vụ vốn là phong trào xóa mù chữ cơ bản. Do vậy, ta hiểu rằng, tên gọi phong trào xóa mù công nghệ số được hình thành từ cảm hứng từ phong trào xóa mù chữ Quốc ngữ năm 1945. Cả 2 phong trào đều mang bản chất xóa mù tri thức trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Ý nghĩa của Phong trào Bình dân học vụ số được thể hiện ở nhiều phương diện, song ý nghĩa cơ bản nhất được khái quát như sau:
- Bình dân học vụ số là sự kết nối với Bình dân học vụ truyền thống, tạo thành một hiện tượng lịch sử trong giáo dục: Trong suốt 80 năm dân tộc Việt Nam luôn luôn chống mù chữ, từ mù chữ cơ bản (không biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ) đến chống mù chữ chức năng (không nắm được công nghệ hiện đại) để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đưa đất nước tiến lên hiện đại, văn minh, bình đẳng với các cường quốc trên thế giới.
- Bình dân học vụ số chuẩn bị cho toàn dân những tri thức và kỹ năng số để cả nước vững bước tiến vào kỷ nguyên số, hướng đến một Việt Nam hùng cường, hiện đại dựa trên sức mạnh của nền kinh tế số, xã hội số.
- Bình dân học vụ số góp phần xóa bỏ "điểm nghẽn" công nghệ, giải quyết dứt điểm tình trạng một bộ phận dân cư và cán bộ còn mù công nghệ, mù ngoại ngữ, mù những kỹ năng trong những nghề hoặc việc làm được trang bị những công nghệ số, bảo đảm không để một ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình tiếp cận và phát triển công nghệ mới.
- Bình dân học vụ số là một mắt xích trọng yếu trong quá trình thực hiện những hành động cách mạng trong giáo dục, nhất là giáo dục người lớn để đi vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ngày 31/10/2024, trong buổi tới thăm lớp huấn luyện cán bộ thuộc danh sách quy hoạch cơ cấu các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Học viện chính trị Quốc gia), Tổng Bí thư Tô Lâm lần đầu tiên nói tới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Những quan điểm cốt lõi trong bài nói chuyện của Tổng Bí thư như sau:
- Kỷ nguyên vươn mình là dấu nối tiếp kỷ nguyên đổi mới - một kỷ nguyên mang tính bứt phá, cất cánh lên tầm cao phát triển mọi mặt để Việt Nam có vị thế mới trong thế giới hiện đại;
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2026-2030) của Đảng là sự khởi đầu của toàn dân bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
- Một trong những giải pháp cốt lõi đi vào kỷ nguyên mới là tiến hành một cuộc cách mạng về chuyển đổi số, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao như một lực lượng thông minh, làm chủ công nghệ mới, công nghệ lõi của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thời gian trước Đại hội XIV, chúng ta sẽ nhanh chóng tổ chức và triển khai Bình dân học vụ số. Cần gắn kết các hướng hoạt động của Bình dân học vụ số với việc triển khai những văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước dưới đây:
- Bình dân học vụ số tạo nên nguồn nhân lực số như một yếu tố đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia theo Nghị quyết 57-NQ/TW (22/12/2024).
- Bình dân học vụ số sẽ có những tác động quan trọng để thực hiện thành công Quyết định số 1658/QĐ-TTg (1/10/2021) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt "Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2030, tầm nhìn 2050", xây dựng Việt Nam thành một quốc gia xanh, góp phần tích cực vào việc đối phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí CO2, thực hiện NetZero trong xã hội.
- Bình dân học vụ số sẽ là một nội dung của đột phá phát triển giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 71-NQ/TW (22/8/2025), tạo nên một sự chuyển biến mang tính cách mạng đối với việc chấn hưng nền giáo dục còn nhiều khuyết tật, không bắt kịp với những xu hướng vĩ mô của nền giáo dục hiện đại toàn cầu.
Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.
Đăng nhập để tham gia bình luận
Đăng nhập với
Facebook Google