Người cao tuổi đi vào kỷ nguyên số
Giáo dục hưu trí có tính chất chuẩn bị cho người sắp về hưu hoặc mới vừa nghỉ hưu để trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ ứng phó với những thay đổi của cuộc sống, giúp họ không bị hẫng hụt do không còn làm việc chuyên môn vốn đã thành nếp sống của họ.
Người cao tuổi Việt Nam trong cơ cấu dân số hiện nay
1. Trong lĩnh vực nhân khẩu học, dân số phụ thuộc (Dependency Ratio)[1] ở Việt Nam năm 2024 như sau:
- Tỉ lệ dân số phụ thuộc so với dân số lao động: 47,0%, trong đó: Trẻ em dưới 15 tuổi: 32,3%. Người cao tuổi: 14,7%.
- Tỉ lệ dân số lao động: 53,0%.
Nhìn vào tỉ lệ dân số trên đây, chúng ta thấy, Việt Nam hiện nay vẫn ở giai đoạn cơ cấu dân số vàng (Golden Population Structure). Tỉ lệ dân số lao động cao hơn tỉ lệ người phụ thuộc, nguồn nhân lực lao động còn phong phú và trẻ trung, một yếu tố cần thiết và quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Giai đoạn cơ cấu dân số vàng ở Việt Nam là khoảng thời gian 2007-2041. Tuổi thọ của người Việt đang tăng dần: Năm 2020, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 73,6 tuổi; năm 2023: 73,7 tuổi và năm 2024: 74,7 tuổi. Phụ nữ luôn có tuổi thọ trung bình cao hơn nam giới khoảng 5 đến 5,3 năm.

Người cao tuổi trong giai đoạn chuẩn bị tăng cường chuyển đổi số, hướng tới kỷ nguyên số giai đoạn 2026-2035. Minh hoạ: usplash
Tuổi thọ trung bình của người Việt hiện đã cao hơn tuổi thọ trung bình của thế giới. Những yếu tố giúp nâng cao tuổi thọ chủ yếu là:
- Y tế phát triển: Khả năng phòng ngừa và điều trị bệnh hiệu quả nhờ vaccine, kháng sinh, chăm sóc sức khỏe ban đầu tốt hơn trước, việc khám chữa bệnh định kỳ làm nghiêm ngặt, quản lý sức khỏe trong xã hội tốt hơn.
- Mức sống của người dân được cải thiện, môi trường sống sạch sẽ hơn trước, vệ sinh cá nhân được tăng cường, việc dùng thực phẩm chức năng được nhận thức đúng đắn hơn.
- Nhờ giáo dục, người dân hiểu rõ hơn những yếu tố mà cá nhân cần lưu ý để duy trì và tăng cường sức khỏe, việc tự chăm sóc sức khỏe được chú ý nhiều hơn, những thói quen xấu như uống rượu, hút thuốc, sống bê tha đã ngày càng giảm thiểu.
- Chất lượng cuộc sống được cải thiện; nhờ công nghệ, người dân tiếp cận y tế, giáo dục thuận tiện hơn trước, giao lưu và thương mại trực tuyến giảm đi nhiều rào cản đối với người dân.
Người cao tuổi trong giai đoạn chuẩn bị tăng cường chuyển đổi số, hướng tới kỷ nguyên số giai đoạn 2026-2035
1. Hội Người Cao tuổi Việt Nam hiện nay có phong trào "Tuổi cao - Gương sáng", tập trung vào những nội dung lớn như xây dựng đời sống văn hóa, chuyển đổi xanh, nông thôn mới, đô thị văn minh. Từ phong trào này, ta có nhiều thông tin về hoạt động của người cao tuổi ở nước ta:
Năm 2024, cả nước có 16.100.000 người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên), trong đó có:
7.000.000 người vẫn tham gia các hoạt động lao động.
1.270.000 người tham gia làm việc trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
127.000 người tham gia công tác xây dựng Đảng.
889.000 người tham gia công tác Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội, các Hội quần chúng.
Trên 1.000.000 người làm công tác xã hội ở thôn bản.
221.000 người đang làm chủ các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
9.000.000 người tham gia sinh hoạt trong gần 9000 câu lạc bộ người cao tuổi.
Hàng nghìn nhà khoa học, nhà giáo ở độ tuổi U80 vẫn tập trung nghiên cứu nhiều công trình khoa học hoặc đào tạo thế hệ trẻ trong các trường đại học.
- Trong phong trào học tập suốt đời, có cả chục nghìn người ở độ tuổi 60 trở lên vẫn hàng ngày theo học các lớp chuyên đề tại Trung tâm học tập cộng đồng, vẫn tham dự những lớp học trực tuyến do các trường đại học tổ chức. Nhiều người vẫn tham luận hoặc dự thính tại không ít các hội thảo hoặc hội nghị khoa học.
- Trong gia đình, dòng họ, cộng đồng thôn/bản, xã/phường, rất nhiều cụ già vẫn làm tốt vai trò "cây cao bóng cả", là chỗ dựa tinh thần cho con cháu, là những người có uy tín về lối sống, về đạo đức trước nhân dân và cán bộ ở địa phương.
Tuy nhiên, khi đồng hành cùng với dân tộc, trong đó có những thế hệ con cháu của mình, người cao tuổi thường vấp phải những khó khăn không dễ khắc phục.
Trước hết, khi thế hệ Z bước vào tuổi thanh niên thì hầu như những người thuộc nhóm nhân khẩu này đã khá thành thạo trong việc sử dụng những thiết bị thông minh để học tập và làm việc với tư cách là người làm chủ thực thụ đối với công nghệ số.
Khi thế hệ Alpha được người lớn coi như nhóm Digital Native (người bản địa kỹ thuật số)[2] và được gán cái tên đáng yêu "Thế hệ màn hình" (Screen Generation), thì người cao tuổi phần đông lại thuộc nhóm người "nhập cư kỹ thuật số" (Digital Immigrand), đó là người sinh ra trước thời đại kỹ thuật số, khi lớn lên và già đi phải học cách thích nghi với công nghệ số.
Rất nhiều người cao tuổi mua điện thoại di động thông minh nhưng chỉ dùng để gọi hoặc nghe người khác gọi. Mọi ứng dụng phần mềm tiện ích của chiếc điện thoại bỏ túi đối với họ là việc không thể tiếp cận được.
Khó làm chủ công nghệ số là rào cản lớn nhất đối với không ít người cao tuổi Việt Nam. Đây là một vấn đề lớn của Chương trình hỗ trợ người cao tuổi đi vào kỷ nguyên số.
- Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay đã được nâng lên đáng kể. Theo tài liệu của Bộ Y tế, tuổi thọ trung bình của người Việt hiện là 74,7 tuổi, cao hơn tuổi thọ trung bình của thế giới, cao hơn nhiều so với các quốc gia cùng nước thu nhập bình quân đầu người.
Nhưng tuổi thọ khỏe mạnh[3] (Healthy Life Expectancy) của người Việt lại thấp, chỉ ở khoảng 64-65 tuổi. Điều này có nghĩa là, nhiều người cao tuổi sau năm thứ 64 hoặc 65 đã phải sống chung với nhiều bệnh tật.
Theo Bộ Y tế, người cao tuổi ở Việt Nam thường đồng thời mắc nhiều bệnh, cụ thể là: Sau 60 tuổi: Trung bình mắc 2-4 bệnh. Sau 80 tuổi: Trung bình mắc 6-7 bệnh.
Khoảng 70% người cao tuổi Việt Nam gánh từ 3 bệnh mãn tính trở lên. Các bệnh mãn tính thường là: bệnh phổi tắc nghẽn, đái tháo đường, suy tim, đột quỵ, Parkinson, hội chứng tiền đình.
Với tình trạng này, việc học tập thường xuyên để thích ứng với đời sống xã hội luôn thay đổi là khó đối với đông đảo người cao tuổi.
- Nhiều người cao tuổi hiện nay thường thua kém thế hệ trẻ về trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là những nông dân, công nhân, cựu chiến binh và các bậc cao niên vùng xa xôi hẻo lánh, vùng dân tộc thiểu số.
Đây là một thực trạng trong người cao tuổi, rất khó khắc phục. Hiện có nhiều lớp học, khóa học ngoại ngữ cho người cao tuổi. Nhưng với tuổi cao, trí nhớ giảm sút, học trước quên sau nên nhiều người cao tuổi theo học nửa chừng phải bỏ.
Trình độ ngoại ngữ kém vừa là rào cản để con người tiếp cận với những tri thức trong các học liệu nước ngoài, vừa là rào cản để sử dụng các công nghệ qua các thiết bị kỹ thuật số.
- Nhiều người cao tuổi rất ngại học thêm, nhất là những người trình độ học vấn chưa cao, không có thói quen đọc sách báo. Nhiều người về hưu thích sống an nhàn, thảnh thơi trí óc, nên thường chọn công việc chăm sóc vườn tược, cây cảnh, gia súc, gia cầm, thú cưng, ngại ra khỏi nhà.
Một số người khác thì hay rủ nhau trà lá, chơi bài, đánh cờ tướng. Sau một đời lao động vất vả, nhiều người tìm đến cho mình một lối sống êm ả, nhàn tản, tĩnh dưỡng, bình yên.
Với những người cao tuổi đang sống trong những điều kiện khó khăn như thu nhập thấp, con cháu làm ăn vất vả không có điều kiện chăm lo chu đáo cho họ thì họ khó tránh khỏi sự lạc lõng trong cuộc sống số (Digital Life), trong đó nhiều công nghệ số được tích hợp sâu vào mọi khía cạnh như giao tiếp, mua sắm, giải trí, truy cập thông tin, kết nối với người thân...
Chỉ riêng không có tiền mua chiếc điện thoại thông minh thì họ muốn hay không muốn cũng sẽ dễ bị gạt ra ngoài nhiều hoạt động xã hội.
Những giải pháp hỗ trợ người cao tuổi thích ứng với kỷ nguyên số
Giáo dục hưu trí (Retirement Education)
Giáo dục hưu trí là một hoạt động có tính chất chuẩn bị cho người sắp về hưu hoặc mới vừa nghỉ hưu để trang bị cho họ những kiến thức, những kỹ năng và thái độ ứng phó với những thay đổi của cuộc sống sau nghỉ hưu, giúp họ không bị hẫng hụt do không còn làm việc chuyên môn vốn đã thành nếp sống của họ.
Nội dung giáo dục hưu trí tập trung vào những vấn đề thể lực, tâm lý - xã hội và tài chính. Người học được khích lệ và hỗ trợ trong việc tìm kiếm những công việc lành mạnh trong thời gian rảnh rỗi, giúp cho họ cảm thấy mình vẫn còn hữu ích cho xã hội, sống vui vẻ trong trạng thái thoải mái về tinh thần, ít bệnh tật và chấp nhận về già là một quy luật tất yếu của cuộc đời.
Nội dung những kiến thức cần trang bị cho người chuẩn bị nghỉ hưu
- Để tránh tâm lý bị hẫng hụt khi từ giã công việc hàng ngày, nhà giáo dục cần giúp người học mấy điều quan trọng để họ nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng nơi cư trú, tham gia sinh hoạt với các nhóm bạn mới như những người hàng xóm đã nghỉ hưu, tham gia sinh hoạt câu lạc bộ, nhà văn hóa của xã, phường, các phong trào của nhân dân địa phương.
Tìm một việc thích hợp và lên kế hoạch thực hiện khi bắt đầu nghỉ hưu như tham gia một việc làm cụ thể: Dạy cho trẻ em, thanh thiếu niên khu dân cư về ngoại ngữ, âm nhạc, hội họa... nếu bản thân mình có vốn liếng; tham gia lớp học về những việc mình thích mà khi đương nhiệm không có thì giờ theo đuổi như học chơi một nhạc cụ, viết thư pháp, làm một sản phẩm thủ công có thể mang lại thu nhập...
Tiếp tục phát huy năng lực, sở trường của mình như viết báo, làm thơ, trồng cây cảnh, sáng tác nhạc...
Thường xuyên ra khỏi nhà để có một đời sống năng động, duy trì thể lực. Nếu có điều kiện, thỉnh thoảng đi du lịch, đi chơi xa với nhóm bạn bè cũ và mới.
Biết tổ chức bữa ăn lành mạnh để duy trì thể lực, luôn đủ năng lượng sống hàng ngày, giảm bớt nguy cơ mắc những bệnh của tuổi già như tim mạch, đột quỵ, tiểu đường, đau dạ dày...
Giúp người về hưu những kỹ năng
Kỹ năng quản lý thời gian, điều chỉnh sinh hoạt hàng ngày một cách hợp lý với một lịch trình khoa học: thể dục, đọc sách, làm việc trí óc hoặc chân tay, giao lưu với bạn bè. Đặc biệt phải cố gắng có được một số thời gian lao động như một chìa khóa an toàn cho việc giữ sức khỏe, không bị hẫng hụt khi rời khỏi công việc nghề nghiệp.
Kỹ năng quản lý tài chính cá nhân: Lập kế hoạch chi tiêu hợp lý khi không còn có điều kiện thu nhập cao trước nghỉ hưu. Biết quản lý tài chính một cách khoa học, đời sống về hưu sẽ ổn định, không phụ thuộc vào con cái. Luôn thiếu hụt về tài chính sẽ là một áp lực tai hại không chỉ đối với tâm lý, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ sức khỏe.
Kỹ năng giao tiếp và kết nối xã hội. Duy trì và mở rộng quan hệ giao tiếp, kết nối với xã hội là một việc làm hữu ích, giúp người về hưu không cảm thấy cô đơn, xa lạ với mọi người xung quanh, kể cả với con cháu trong gia đình.
Kỹ năng chăm sóc sức khỏe: Giúp người về hưu có nhận thức đúng đắn về vấn đề rèn luyện cơ thể: tập thiền định, Yoga, tập thể dục hàng ngày, kiểm tra sức khỏe định kỳ, có hiểu biết về thực phẩm chức năng và thuốc chữa bệnh để tránh sử dụng sai thuốc men và lạm dụng thực phẩm chức năng, tăng cường sức khỏe.
Kỹ năng tự học: Người nghỉ hưu nếu không tham gia các khóa học, lớp học dành cho người cao tuổi do các tổ chức chính phủ hoặc phi chính phủ triển khai thì cũng phải học tập thường xuyên thông qua tự học.
Kỹ năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật số: Kỹ năng này vô cùng quan trọng bởi thiếu nó, người về hưu sẽ bị bỏ lại phía sau khi xã hội tiến vào kỷ nguyên số.
Giáo dục chuyển đổi số và chuyển đổi xanh cho người cao tuổi
Nội dung của công việc giáo dục này là tập trung nâng cao nhận thức, hình thành những kỹ năng số và xanh cơ bản (sử dụng dịch vụ công, mua sắm và thanh toán online, tự bảo vệ trên mạng, giữ gìn luật lệ mạng...).
Nâng cao nhận thức
Giúp cho người cao tuổi nhận thức đúng đắn rằng, họ là một nguồn lực quan trọng của xã hội trong chuyển đổi số và xanh khi họ nỗ lực nắm bắt tri thức và kỹ năng mới cần có trong kỷ nguyên số; họ không phải là gánh nặng của xã hội.
Đào tạo kỹ năng
- Kỹ năng chuyển đổi số: Kỹ năng sử dụng dịch vụ công trực tuyến, thanh toán online, ứng dụng AI đơn giản, an toàn mạng và kỹ năng chuyển đổi xanh.
Kỹ năng xanh hóa nơi cư trú và tổ dân phố, giữ gìn môi trường sống không rác thải nhựa, tích cực thu gom rác thải, xây dựng nông nghiệp hữu cơ.
Kỹ năng thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Nhà nước chăm lo các dịch vụ cho người cao tuổi
- Xây dựng các dự án hỗ trợ vốn để tạo lập các Statup nhỏ, giúp người cao tuổi phát huy năng lực vốn có và tăng thu nhập.
- Mở ra các chương trình, các khóa học về những việc làm mà người cao tuổi có thể tham gia.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế bạc (Silver Economy): Sản xuất những sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người cao tuổi; Tận dụng những tri thức và kinh nghiệm của họ để biến những thách thức về già hóa dân số thành động lực tăng trưởng mới.
- Xây dựng những chính sách an sinh xã hội để người cao tuổi khắc phục được những khó khăn, những rào cản trong đời sống: Tạo ra những dịch vụ giáo dục để người cao tuổi học tập thường xuyên tại nhà; phát triển các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và quản lý sức khỏe cho người cao tuổi, sao cho họ được kiểm tra sức khỏe định kỳ và kịp thời mà không phải đi xa.
- Xây dựng những khu an dưỡng cho những người già cả không nơi nương tựa có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Những nhà an dưỡng đó phải là những cơ sở dịch vụ chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, tạo ra cho họ một cuộc sống an toàn và thoải mái để họ được hạnh phúc trong kỷ nguyên số.
[1] Dân số phụ thuộc được nhiều quốc gia quy định là tỉ lệ phần trăm dân số không nằm trong độ tuổi lao động (thường là dưới 15 tuổi và trên 64 tuổi) so với dân số lao động (15-64). Dân số lao động phải gánh vác công việc sản xuất và nhiều công việc xã hội để bảo đảm mức sống và đời sống an sinh khác của dân số phụ thuộc.
[2] Digital Native là người bẩm sinh đã thể hiện những khả năng sử dụng những thiết bị di động thông minh như Smartphone, Tablet... Thế hệ Alpha còn vượt trội thế hệ Z về tốc độ thích ứng các giao diện và công nghệ mới. Trong tương lai, thế hệ Alpha và Beta sẽ trội hơn các thế hệ trước về tư duy số và giao tiếp số.
[3] Tuổi thọ khỏe mạnh là khoảng thời gian của một người sống không bị hạn chế bởi các bệnh mãn tính (bệnh tim mạch, tiểu đường, ung thư...) và các khuyết tật.


Bình luận
Thông báo
Bạn đã gửi thành công.
Đăng nhập để tham gia bình luận
Đăng nhập với
Facebook Google