Ngành Giáo dục thiệt hại nặng nề do bão số 3 và hoàn lưu bão

Thiên Ân
10:37 - 17/09/2024
Công dân & Khuyến học trên

Cơn bão số 3 cùng hoàn lưu bão đã gây ra những thiệt hại rất nặng nề cho ngành Giáo dục. Có giáo viên, học sinh bị tử vong và mất tích; nhiều công trình trường học bị sập, đổ, tốc mái; thiết bị dạy học, bàn ghế, sách vở bị nước cuốn trôi, hư hỏng nặng.

Ngành Giáo dục thiệt hại nặng nề do bão số 3 và hoàn lưu bão - Ảnh 1.

Sau bão, cây xanh gãy đổ ngổn ngang tại Trường Trung học phổ thông Bãi Cháy (thành phố Hạ Long, Quảng Ninh). Ảnh: Trường Trung học phổ thông Bãi Cháy

Theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về thiệt hại do cơn bão số 3 và hoàn lưu bão đối với ngành Giáo dục, tính đến ngày 14/9, có 52 học sinh, trẻ em bị tử vong, 3 học sinh bị mất tích, 8 học sinh bị thương; 3 giáo viên tử vong, 1 giáo viên mất tích.

Do mưa to và gió lớn nên nhiều cơ sở giáo dục ở các tỉnh, thành phố khu vực miền núi phía Bắc và Đông Bắc Bộ bị ngập nước sâu, phòng học bị tốc mái, nhiều công trình bị sập, đổ, vỡ kính; thiết bị dạy học, đồ dùng học tập của học sinh bị nước cuốn trôi, ướt hỏng.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các địa phương tiếp tục khẩn trương tập trung rà soát, đánh giá thiệt hại, tổng hợp báo cáo để đề xuất các cơ quan thẩm quyền hỗ trợ kinh phí khắc phục hậu quả.

Hiện, các địa phương đang trong quá trình thống kê chi tiết thiệt hại về phòng học và trang thiết bị dạy học.

Theo báo cáo ban đầu, nhiều trường bị ngập nước sâu, rất nhiều máy tính, thiết bị phòng học bộ môn, bàn ghế học sinh bị hư hỏng nặng, khó khắc phục, sửa chữa. Ở nhiều tỉnh/thành phố, sách giáo khoa của học sinh bị cuốn trôi hoặc hư hỏng, không thể sử dụng được.

Theo thống kê mới nhất, riêng tỉnh Yên Bái, có gần 20 nghìn học sinh bị mất, hỏng sách giáo khoa, và kinh phí cần có để mua sách giáo khoa ước tính trên 9 tỉ đồng.

Tiếp tục triển khai các biện pháp khắc phục, hỗ trợ

Nhằm bảo đảm an toàn cho học sinh, giáo viên, ngành Giáo dục đã nhanh chóng triển khai nhiều biện pháp ứng phó và khắc phục nhằm ổn định lại hoạt động dạy và học tại các địa phương bị ảnh hưởng do bão, chỉ cho học sinh đến trường khi bảo đảm an toàn.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo các nhà xuất bản sẵn sàng nguồn cung ứng sách giáo khoa tới các địa phương bị ảnh hưởng do bão, đảm bảo việc học tập không bị gián đoạn. Đồng thời, kêu gọi sự hỗ trợ từ các nhà xuất bản, tổ chức và cá nhân để tài trợ sách giáo khoa cho học sinh.

Các địa phương tiếp tục khẩn trương tập trung rà soát, đánh giá thiệt hại thiệt hại về cơ sở vật chất, trường, lớp học tổng hợp báo cáo để đề xuất các cơ quan thẩm quyền hỗ trợ kinh phí khắc phục hậu quả.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện điều chỉnh Kế hoạch thời gian năm học đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên phù hợp với thực tiễn của địa phương bảo đảm thực hiện và hoàn thành chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trong trường hợp ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh; quyết định cho học sinh nghỉ học trong trường hợp thời tiết quá khắc nghiệt, thiên tai; đối với các trường hợp đặc biệt phát sinh, báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo trước khi thực hiện.

Đối với những gia đình giáo viên và học sinh có người tử vong, mất tích hoặc bị thương, tiếp tục triển khai mức hỗ trợ tài chính tùy theo mức độ thiệt hại. Giáo viên tử vong hỗ trợ 30 triệu đồng/gia đình, học sinh và trẻ mầm non tử vong hỗ trợ 10 triệu đồng/gia đình.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khi phân bổ quyên góp ủng hộ, ưu tiên kinh phí cho ngành Giáo dục để kịp thời sửa chữa, khắc phục các công trình bị hư hại, mua sắm thiết bị đồ dùng cho học sinh, sinh viên, góp phần đảm bảo các điều kiện học tập để các em sớm trở lại trường học. Đồng thời, tăng cường điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục ở các địa phương bị thiệt hại do bão gây ra.

Thiệt hại về cơ sở vật chất của các địa phương (tính tới ngày 14/9/2024)

Hà Nội: 3.580m tường rào bị đổ; 457 phòng học tốc mái, 719 nhà xe hư hỏng.

Bắc Giang: 3.264m2 mái tôn bị hỏng; 331m tường rào bị đổ; 8 công trường đổ sập.

Cao Bằng: Nguy cơ sạt lở rất cao tại các trường mầm non, phổ thông huyện Bảo Lộc, Bảo Lạc.

Tuyên Quang: 33 trường học bị ngập nước, sạt lở đất (14 trường mầm non; 7 trường tiểu học; 7 trường trung học cơ sở; 5 trường trung học phổ thông).

Bắc Kạn: 39 trường học bị ảnh hưởng nặng nề do ngập úng, sạt lở (huyện Ba Bể: 8; huyện Chợ Đồn: 9; huyện Chợ Mới: 5; huyện Pác Nặm: 8; huyện Na Rì: 7; huyện Bạch Thông: 2); 69 nhà của viên chức bị ngập lụt, sạt lở đất tràn vào nhà, sập tường rào.

Lạng Sơn: 78 trường học các cấp bị ngập úng; 118/650 trường học bị thiệt hại (đổ tường bao, cổng trường, biển trường, cây xanh, tốc mái, vỡ cửa kính, hư hỏng thiết bị dạy học…).

Quảng Ninh: tốc mái 7.630 m2 nhà trong trường học, sập trần 110 phòng, Đổ tường rào 375m, sập 6.480m2 nhà để xe… thiệt hại chưa thể thống kê được.

Lào Cai: 10 trường trung học phổ thông bị ảnh hưởng do sạt lở và ngập lụt; 7 đơn vị trường tại huyện Bát Xát, 6 đơn vị trường tại huyện Văn Bàn, 13 đơn vị trường tại huyện Bắc Hà, 9 đơn vị trường tại huyện Si Ma Cai, 4 đơn vị trường tại thị xã Sa Pa, 7 đơn vị trường tại huyện Bảo Yên, 3 trường tại huyện Bảo Thắng, 10 đơn vị trường tại huyện Mường Khương bị ảnh hưởng do sạt lở taluy và ngập lụt.

Yên Bái: 27 trường bị ngập lụt, 59 trường bị sạt lở và hư hỏng công trình.

Hải Dương: 90% số trường học có phòng bị tốc mái tôn, tường bao sụp đổ, thiệt hại chưa thể tính toán được.

Hải Phòng là địa phương có thiệt hại rất lớn, hiện tại chưa thể tính toán được mức độ cụ thể bằng tiền, làm đình trệ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động dạy và học của địa phương. Cụ thể:

Về phòng học: 1.670 phòng có thể sửa chữa, khắc phục ngay; 1.017 phòng phải tiến hành sửa chữa lớn.

Về phòng học bộ môn: 273 phòng có thể sửa chữa, khắc phục ngay, 96 phòng phải tiến hành sửa chữa lớn.

Công trình phụ trợ không thể sử dụng (nhà xe, phòng y tế, khu vệ sinh): 732 phòng (tỉ lệ: 732/6.800 = 10,8%), trong đó: nhà xe: 328, phòng y tế: 37, khu vệ sinh: 367.

Khối phòng hỗ trợ học tập: 86 phòng không thể sử dụng (tỉ lệ: 86/1.725 = 4,99%).Khối phòng sinh hoạt (nhà bếp, nhà ăn) không thể sử dụng: 65 (tỉ lệ: 65/462 = 10,1%), trong đó: nhà bếp: 31, nhà ăn: 34.

Bình luận của bạn

Bình luận