
Ngày 2/10/1996, Đại hội thành lập Hội Khuyến học Việt Nam đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội. Tính đến tháng 10/2026, Hội đã hoạt động và phát triển liên tục trong 30 năm.
Việc thành lập Hội Khuyến học Việt Nam là một sự kiện lớn trong lịch sử giáo dục ở nước ta, đánh dấu một bước tiến mới trong lĩnh vực giáo dục người lớn khi hòa nhập vào xu thế phát triển xã hội học tập trên thế giới thông qua cuộc vận động toàn cầu học tập suốt đời. Sự kiện lịch sử đó còn đánh dấu một chủ trương lớn của Đảng: lập ra một tổ chức xã hội để hỗ trợ sự nghiệp chấn hưng giáo dục theo tinh thần xã hội hóa.
Trong 30 năm qua, Hội Khuyến học Việt Nam đã thúc đẩy từng công dân, từng cộng đồng dân cư thực hiện những hành trình tri thức liên tục, kiên trì và bền vững theo triết lý "Học không bao giờ cùng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mọi hoạt động khuyến học, khuyến tài do Hội tổ chức đều hướng tới phát triển những mô hình học tập, mà thông qua những mô hình đó, mỗi công dân đều được nuôi dưỡng trong một môi trường sinh thái, có sự thống nhất giáo dục gia đình với giáo dục học đường và giáo dục xã hội.
Giai đoạn 1996-2005
Giai đoạn 1996-2005 gồm 2 nhiệm kỳ Đại hội: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I (nhiệm kỳ 10/1996-6/1999) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (nhiệm kỳ 6/1999-12/2005).
1. Sự khởi đầu của một tổ chức thường gặp những khó khăn về nhiều phương diện như cơ sở vật chất và nguồn tài chính cho hoạt động còn hạn chế; hệ thống nhân sự gặp nhiều khó khăn để vượt qua những thách thức, thiếu cơ sở để xác định chính xác phương hướng phát triển chiến lược hoạt động lâu dài và bền vững.
Hội Khuyến học Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Song, khó có tổ chức nào chỉ cần một thời gian ngắn đã khẳng định được vị thế vững chãi trong xã hội như Hội Khuyến học.
Khi làm lễ ra mắt trước nhân dân cả nước, Hội Khuyến học Việt Nam đã đưa ra một Tuyên ngôn về sứ mệnh của mình, được đông đảo các tầng lớp dân cư hoan nghênh và ủng hộ.
Tuyên ngôn 3 điểm của Hội Khuyến học Việt Nam. Đồ hoạ: TTH
Hiện nay, những nhiệm vụ chính của Hội Khuyến học Việt Nam đều được xác định trên cơ sở tuyên ngôn trên. Đó là:
- Khuyến khích và hỗ trợ hoạt động Dạy và Học trong nhà trường thuộc hệ thống giáo dục ban đầu dành cho thế hệ trẻ.
- Thúc đẩy hoạt động giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời của người lớn trong hệ thống giáo dục tiếp tục dưới hình thức học tập không chính quy và phi chính quy.
- Tư vấn cho cấp ủy và chính quyền các cấp về triển khai các văn kiện của Đảng và Chính phủ về xây dựng xã hội học tập.
- Thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong việc liên kết với các lực lượng xã hội xây dựng và phát triển xã hội học tập theo tinh thần xã hội hóa.
2. Công việc đầu tiên vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài là nhanh chóng gia tăng số lượng hội viên và xây dựng các tổ chức của Hội tại các địa phương để triển khai đến tận cơ sở những chủ trương khuyến học, khuyến tài do Trung ương Hội hoạch định.
Về số lượng hội viên, khi tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ I, có 21 Hội địa phương là thành viên của Hội, với tổng số hội viên trên dưới 100.000 người. Lực lượng này là quá mỏng, bởi mới chiếm tỷ lệ 0,13% dân số trong cả nước[1]; mới có 1/3 số tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương có tổ chức Hội.
Ngày 10/8/1999, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Khuyến học Việt Nam". Chỉ thị đã thúc đẩy các Đảng bộ và chính quyền địa phương trong cả nước phát triển nhanh tổ chức hội trong cả nước.
Đến năm 2005, tổng số hội viên đã tăng lên đạt 3.500.000 người, đạt tỷ lệ 4,21% dân số[2], bình quân tăng mỗi năm là 388.888 người.
Kết thúc nhiệm kỳ II (1999-2005), 100% tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, 99,22% cấp huyện và 90% cấp xã đã phủ kín các tổ chức Hội. Nhờ đó, Hội đã phát triển các hoạt động tới các cơ sở khá thuận lợi. Đến đây, vấn đề đặt ra tiếp theo là phải tiếp tục gia tăng số hội viên trong các tổ chức Đảng, các cơ quan, đoàn thể, hội quần chúng, doanh nghiệp và trường học. Đồng thời, công tác huấn luyện cũng được tăng cường để chất lượng hội viên cũng như các tổ chức Hội được nâng lên.
3. Trước xu thế phát triển xã hội học tập trên thế giới, đặc biệt trong khu vực Đông Nam Á, Hội Khuyến học Việt Nam đã rất nhạy bén tiếp cận xu thế này. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Hội lần thứ 3 (Khóa II), ngày 19-20/1/2001, Đề án "Hội Khuyến học Việt Nam tham gia xây dựng xã hội học tập từ cơ sở" đã được thông qua.
Ngày 27/10/2003, Chính phủ đã có công văn số 176/VPCP-TT giao cho Hội Khuyến học Việt Nam và Bộ Giáo dục và Đào tạo Đề án "Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập".
Từ 2 Đề án trên đây, Hội đã được Chính phủ giao cho Đề tài độc lập cấp Nhà nước "Xây dựng mô hình xã hội học tập ở Việt Nam" (theo Quyết định 616/QĐ-BKHCN, 19/4/2007).
4. Một trong những rào cản đối với cuộc vận động nhân dân tham gia học tập thường xuyên giai đoạn 1996-2005 là những khó khăn về đời sống kinh tế của khá đông dân nghèo ở nông thôn và thành thị.
Năm 1996, nếu tính nghèo cả về phi lương thực và thực phẩm thì tỷ lệ nghèo ở Việt Nam là 31,31%. Số hộ nghèo năm 1996 có tới 3.200.000 thì đến năm 2005 đã hạ xuống 1.100.000. Tuy vậy, số người gặp khó khăn về thu nhập vẫn là khá lớn. Nhiều người dân cho rằng, thiếu chữ thì chưa chết ngay, còn thiếu gạo sẽ không thể sống lâu dài.
Vấn đề đặt ra là, cần giúp cho dân hiểu rằng, xóa nghèo tri thức thì sẽ có điều kiện xóa nghèo thu nhập. Vì vậy, Hội vừa phải động viên người nghèo đi học, song cũng phải hỗ trợ họ có được một số điều kiện tối thiểu để họ dự được một số khóa học rất ngắn hạn.
Hội Khuyến học Việt Nam trao học bổng "Học không bao giờ cùng lần thứ 5 tại Nghệ An ngày 18/7/2025. Ảnh: Quốc Huy/CDKH
Để làm điều này, các cấp Hội đã tiến hành đồng bộ một số giải pháp cụ thể:
- Xây dựng mô hình "Gia đình hiếu học" để phát huy truyền thống hiếu học lâu dài của dân tộc, lấy hiếu học làm động lực tinh thần để những hộ gia đình nghèo vượt qua khó khăn, tham gia học tập thường xuyên, tiếp theo là xây dựng mô hình "Dòng họ khuyến học" để thúc đẩy thi đua xây dựng gia đình hiếu học.
- Ngay từ ngày mới thành lập, Trung ương Hội đã quan tâm xây dựng các quỹ khuyến học và khuyến tài làm nguồn lực hỗ trợ người dân học tập thường xuyên. Quỹ Khuyến học, khuyến tài của gia đình và dòng họ đã góp phần làm đa dạng Quỹ Khuyến học Việt Nam (Quỹ Khuyến học Việt Nam được xây dựng theo văn bản 183/1999/CT-TTg ngày 09/9/1999).
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo phát triển nhanh các Trung tâm học tập cộng đồng trên địa bàn hành chính cấp xã như một công cụ thiết yếu để giúp người dân học tập thường xuyên tại cộng đồng. Đến năm 2005, cả nước đã có 6.130 trung tâm học tập cộng đồng, chiếm tỷ lệ 50% số xã/phường/thị trấn trong nước.
Giai đoạn 2006-2015
Giai đoạn 2006-2015 gồm 2 nhiệm kỳ Đại hội: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (nhiệm kỳ 1/2006 - 9/2010) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (nhiệm kỳ 10/2010-9/2015).
1. Ngay sau năm đầu của nhiệm kỳ III, Hội Khuyến học Việt Nam đã đón nhận một sự kiện quan trọng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cả hệ thống: Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 11-CT/TW (13/4/2007) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
Với sự lớn mạnh nhanh chóng của mình, Hội đã được Đảng giao trách nhiệm giữ vai trò nòng cốt trong việc phối hợp với các lực lượng xã hội thúc đẩy phong trào học tập suốt đời trong nhân dân. Tính đến nay, việc triển khai thực hiện Chỉ thị 11-CT/TW đã được 19 năm; Ban Bí thư đã ra Kết luận 49-KL/TW (10/5/2019), hướng dẫn tiếp tục triển khai Chỉ thị này sau năm 2020.
2. Sau khi Đề tài độc lập cấp Nhà nước về "Xây dựng mô hình học tập ở Việt Nam" được nghiệm thu, Chính phủ đã ban hành Quyết định 112/2005/QĐ-TTg (18/5/2005) về xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010. Nhiệm vụ chính của Hội trong giai đoạn này là tạo nên mô hình xã hội học tập trên địa bàn hành chính cấp xã theo quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Mọi công dân Việt Nam đều có nhiệm vụ học tập thường xuyên, học tập suốt đời để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống cá nhân và gia đình, đóng góp nhiều cho xã hội.
- Các tổ chức xã hội, cơ quan, đoàn thể và gia đình có trách nhiệm tạo mọi cơ hội và điều kiện để tất cả mọi người đều tham gia học tập.
- Gắn kết giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội thành môi trường giáo dục thống nhất, liên thông giáo dục chính quy với giáo dục không chính quy.
Mô hình xã hội học tập ở Việt Nam theo Quyết định 112/2005/QĐ-TTg hoàn toàn không giống với bất cứ mô hình này trên thế giới. Điều đó nói lên rằng, cách xây dựng và phát triển mô hình xã hội học tập ở Việt Nam là một sáng tạo, không cóp nhặt bất cứ mô hình nào trên thế giới.
3. Giai đoạn 2006-2015 có một sự kiện lớn, rất độc đáo cả về hình thức lẫn nội dung. Đó là phong trào xây dựng và phát triển các mô hình "Gia đình hiếu học", "Dòng họ hiếu học" và "Cộng đồng khuyến học". Phong trào thực sự sôi động, có tác dụng thúc đẩy hàng triệu hộ gia đình có nhiều khó khăn về kinh tế và tích cực tham gia học tập thường xuyên để thoát nghèo.
- Ngày 10-11/12/2004, Đại hội biểu dương các gia đình hiếu học tiêu biểu được tổ chức tại Hà Nội. Vào thời điểm đó, cả nước đã có 1.234.345 gia đình hiếu học.
- Ngày 9/10/2007, Đại hội biểu dương các gia đình hiếu học và dòng họ hiếu học tiêu biểu được tổ chức tại Hà Nội. Lúc này, trong cả nước đã có trên 3.500.000 gia đình đạt danh hiệu "Gia đình hiếu học" và trên 3000 dòng họ đạt danh hiệu "Dòng họ hiếu học".
- Tháng 12/2012, Đại hội biểu dương các gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học và cộng đồng khuyến học được tổ chức rất trọng thể tại Hà Nội. Đây là Đại hội cuối cùng của giai đoạn thi đua xây dựng các mô hình hiếu học và khuyến học.
Cuối năm 2015, cả nước đã có 8.430.234 gia đình hiếu học, 65.307 dòng họ hiếu học và 70.380 cộng đồng khuyến học. Hai loại mô hình hiếu học và khuyến học này là yếu tố nền tảng để xây dựng các mô hình học tập trên địa bàn hành chính cấp xã theo Quyết định 281/QĐ-TTg (20/2/2014) ở giai đoạn sau.
4. Bắt đầu từ năm 2010, tổng số tiền trong Quỹ Khuyến học toàn quốc đạt 1000 tỷ. Riêng năm 2010, số tiền quỹ trung bình tính trên đầu người dân là 11.367 đồng. Đến cuối năm 2015, con số tương ứng đã đạt mức 20.000 đồng. Sự phát triển của Quỹ Khuyến học đã góp một phần đáng kể về tạo điều kiện cho trẻ em con nhà nghèo không phải bỏ học, giúp cho không ít thầy, cô giáo trường phổ thông có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ để yên tâm hơn với công việc. Nhiều học sinh, sinh viên có thành tích học tập tốt cũng được những phần thưởng từ Quỹ như một sự động viên kịp thời và hiệu quả.
Giai đoạn 2016-2026
Giai đoạn 2016-2020 gồm 2 nhiệm kỳ Đại hội: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (nhiệm kỳ 9/2016-10/2021) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (nhiệm kỳ 11/2021-6/2026).
1. Trong giai đoạn này, công việc có ý nghĩa trọng đại là Hội các cấp đã tham gia tổng kết 10 năm triển khai Chỉ thị 11-CT/TW của Bộ Chính trị và đóng góp ý kiến xây dựng nội dung Kết luận 49-KL/TW của Ban Bí thư về tiếp tục Chỉ thị 11-CT/TW, trong đó có nhiều nhiệm vụ khuyến học, khuyến tài đặc biệt quan trọng 10 năm tiếp theo như mô hình "Công dân học tập", "tỉnh/thành phố học tập", "Thành phố học tập toàn cầu"...
2. Cũng trong giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Quyết định 749/QĐ-TTg về Chương trình chuyển đổi số quốc gia.
Hai văn kiện nói trên đòi hỏi phải nâng cao chất lượng các mô hình học tập thông qua việc bổ sung những chỉ số đánh giá vào Bộ tiêu chí dành cho các mô hình "Gia đình học tập", "Dòng họ học tập", "Cộng đồng học tập" và "Đơn vị học tập", sao cho mỗi mô hình đều thể hiện là một môi trường giáo dục số hóa, nuôi dưỡng những công dân học tập và công dân số.
3. Việc tổ chức học tập suốt đời của người lớn đến đây phải có những cải tiến cơ bản, không chỉ dừng lại ở việc số hóa các tài liệu học tập, mà phải chuyển đổi số thực sự trong hệ thống học tập không chính quy như tổ chức học trực tuyến hoặc kết hợp học trực tiếp với học trực tuyến mà mục tiêu là, mỗi người lớn đều có thể thực hiện học tập mọi lúc, mọi nơi, học tập kịp thời những nội dung cần cho việc làm.
Mỗi người dân sẽ từng bước sử dụng được điện thoại thông minh, các thiết bị di động thông minh để truy cập thông tin và tri thức hàng ngày trên Internet thông qua các ứng dụng học tập được cài đặt trên máy tính hoặc trong điện thoại.
Hội Khuyến học Việt Nam đã đặt vấn đề phối hợp và liên kết với các trường đại học để việc học tập thường xuyên được tiếp cận với những dịch vụ giáo dục như:
- Sử dụng tài nguyên giáo dục mở của các trường đại học.
- Tham gia những khóa học, lớp học trực tuyến hoặc kết hợp học trực tiếp với trực tuyến do cán bộ giảng dạy đại học tổ chức.
- Trường đại học hỗ trợ phương pháp quản lý dữ liệu và đánh giá các mô hình học tập trên máy tính.
4. Trong giai đoạn 2016-2026, Hội Khuyến học Việt Nam đã đẩy mạnh việc phối hợp với nhiều bộ, ban, ngành và các tổ chức xã hội thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng xã hội học tập.
Chương trình phối hợp hoạt động với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an... đã tạo nên một liên minh rộng rãi, triển khai đa dạng các hoạt động khuyến học, khuyến tài.
Trong chương trình phối hợp hoạt động và cam kết tổ chức tốt việc học tập suốt đời, các bên tham gia đã tập trung triển khai mô hình "Gia đình học tập" và "Đơn vị học tập".
Đảng bộ các cấp cũng đã có kế hoạch nghiên cứu quán triệt Kết luận 49-KL/TW tới các chi bộ để đáp ứng 3 yêu cầu của Ban Bí thư:
- Mỗi đảng viên là một công dân học tập.
- Mỗi gia đình đảng viên là một gia đình học tập.
- Mỗi chi bộ đảng là một đơn vị học tập.
Chấp hành ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư về tham gia mạng lưới "Thành phố học tập toàn cầu", cuối năm 2024, trong cả nước đã có 5 thành phố được UNESCO công nhận là thành viên của mạng lưới. Đó là Thành phố Hồ Chí Minh, Sơn La, Sa Đéc, Cao Lãnh và Vinh.
Tại 5 thành phố này, nhân dân đã có nhiều sáng kiến mới đưa học tập về gia đình và về cộng đồng tạo điều kiện cho việc học tập tại nơi làm việc và mở rộng việc sử dụng các công nghệ học tập hiện đại.
5. Vào cuối giai đoạn 2021-2025 (Nhiệm kỳ Đại hội VI của Hội), Hội Khuyến học Việt Nam đã có nhiều hoạt động để thực hiện tốt chương trình chuyển đổi số quốc gia và chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030. Thực hiện tốt 2 nhiệm vụ nói trên, Hội mới thật sự đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hội viên cũng như chất lượng của các mô hình học tập trong Quyết định 387/QĐ-TTg và 677/QĐ-TTg, tạo năng lực mới để đi vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hướng tới mô hình xã hội hạnh phúc, thịnh vượng và thông minh.
Ban thường vụ Hội Khuyến học Việt Nam tổ chức Hội nghị lần thứ 8, khoá VI, nhiệm kỳ 2021-2026 tại Nghệ An ngày 17/7/2025. Ảnh: Quốc Huy/CDKH
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII sẽ được tổ chức vào giữa năm 2026. Đại hội là cột mốc đánh dấu Hội Khuyến học Việt Nam đã thực hiện một hành trình tri thức liên tục trong 30 năm và bước vào một giai đoạn mới: Giai đoạn phát triển sự nghiệp khuyến học trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc.
Sẽ có nhiều điều mới mẻ và đầy sáng tạo về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn 2045. Đó là kỳ vọng của công dân Việt Nam khi hướng đến một quốc gia thịnh vượng, một xã hội thông minh và một dân tộc thông thái.
[1],[2] Theo Tổng cục Thống kê, năm 1996, dân số nước ta gồm 73.160.000 người; năm 2005, dân số đã đạt là 83.120.000 người.