PGS Đào Xuân Sâm: Sống mãi những ngày tháng lịch sử cùng Thủ đô
Ngày 19/12/1946, thời khắc bước vào cuộc kháng chiến, mỗi mái nhà, góc phố đều trở thành chiến lũy; tuổi trẻ của PGS Đào Xuân Sâm - nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng hòa vào dòng người mang quyết tâm "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ".


PGS Đào Xuân Sâm ở Tuyên Quang, năm 1950 và cảnh phố phường Hà Nội, tháng 12/1946.
Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, có những con người mà cuộc đời họ gắn với những tháng năm gian khổ nhưng hào hùng, để mỗi khi nhắc đến là vang lên âm hưởng của một thời không thể lãng quên.
Ngày 19/12/1946 là Ngày Toàn quốc Kháng chiến của Việt Nam chống thực dân Pháp, đánh dấu thời điểm bùng nổ cuộc kháng chiến trên cả nước sau khi Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động, và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến đêm đó, mở đầu bằng việc công nhân Nhà máy điện Yên Phụ phá máy và pháo đài Láng bắn đạn mở đầu cuộc chiến tại Hà Nội.
Ngày 19/12/1946, thời khắc bước vào cuộc kháng chiến, mỗi mái nhà, góc phố đều trở thành chiến lũy; tuổi trẻ của PGS Đào Xuân Sâm - nguyên Trưởng khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng hòa vào dòng người mang quyết tâm "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ".
Sống mãi với Thủ đô
Tháng 3/1946, Pháp đưa quân trở lại miền Bắc theo Hiệp định sơ bộ ký với Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Hai người bạn Nguyễn Viết Nhâm (cán bộ Việt Minh huyện Thanh Trì) và Bùi Xuân Vinh đã đăng ký nhập ngũ khiến ông bồn chồn suy nghĩ: "Chẳng nhẽ cứ ở xã Đại Hưng, Mỹ Đức để làm công việc hành chính trong quân Pháp đã trở lại miền Bắc".
Sau nhiều ngày trăn trở, tháng 5/1946, ông quyết tâm làm đơn nhập ngũ và được phân về đại đội 1, Tiểu đoàn 56 (được thành lập ngày 23/8/1945, là tiểu đoàn quân chủ lực đầu tiên của tỉnh Hà Đông ra đời và đóng quân ở thị xã Hà Đông gồm có 5 đại đội) đóng quân ở đình Thanh Liệt, huyện Thanh Trì.
Đầu tháng 12/1946, thực dân Pháp cho quân gây hấn nhiều nơi ở miền Bắc như Lạng Sơn, Hải Phòng, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội. Trong đơn vị, ông và các đồng đội đều chuẩn bị tinh thần trước khi bước vào cuộc chiến.
Đêm 19/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang trên loa truyền thanh mà lòng ông sôi sục, sau đó đơn vị được lệnh tiến vào chiếm giữ các khu nhà thương Bạch Mai (nay là Bệnh viện Bạch Mai), Đông Dương học xá (nay là trường Đại học Bách khoa Hà Nội), lập chiến lũy ô Cầu Dền.
Ngày 21/12/1946, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Anh Đệ và chính trị viên Lê Thanh cùng một số thành viên ra chiến đấu ở Ô Cầu Dền. Đêm 24/12/1946, Tiểu đoàn 56 đã tổ chức một đơn vị thọc sâu nhằm thu hút và phân tán lực lượng địch không cho chúng tập trung ở khu phố cổ Hà Nội, hỗ trợ cho Trung đoàn Thủ đô chiến đấu trong khu trung tâm thành phố. Để linh động, ông Vũ Công Định – Đại đội trưởng Đại đội 1 cho đơn vị phân tán thành các nhóm nhỏ hoạt động quấy phá địch, Nhóm ông Sâm được cấp cho hai khẩu súng trường và hai quả lựu đạn do ông Trâm – tiểu đội trưởng dẫn đầu dưới sự dẫn đường của tự vệ thành.
Đào Xuân Sâm đeo hai quả lựu đạn ở thắt lưng, một quả lựu đạn Tây, quả còn lại là lựu đạn lọ mực do công binh Việt Nam tự chế. Lúc này, quân Pháp mở rộng tiến đánh xuống phía Nam Hà Nội, gần Nhà máy rượu Hà Nội trên phố Lò Đúc.
Trong đêm tối, dưới sự dẫn đường của tự vệ thành, mọi người đi luồn bên trong nhà dân được đục thông nhau. Tiến gần nhà máy thì mọi người thấy ánh đèn le lói hắt ra từ trong phòng, bên trong có một số binh lính Pháp. Dưới sự yểm trợ của đồng đội, ông Sâm bò đến gần của sổ phòng rồi ném lựu đạn vào. Tiếng lính Pháp la lối bên trong, lựu đạn bị ném trả ra ngoài cùng tiếng nổ lựu đạn, súng bắn liên hồi.
Trong đêm tối, ông chỉ thấy cánh tay trái bị đau và máu rỉ ra. Sau một hồi chiến đấu, ông Trâm ra lệnh rút lui, Đào Xuân Sâm được đưa về Đông Dương học xá để sơ cứu, sau chuyển về dưỡng thương tại trạm cấp cứu ở làng Quỳnh Đô, tổng Cổ Điển, Thanh Trì.
Thiếu phương tiện y tế nên y bác sĩ của trạm đã không tìm được nguyên nhân gây nên vết thương ở tay nên đành băng lại rồi đưa ông về làng Hòa Xá, Tả Thanh Oai, Thanh Trì để điều trị. Phải đến năm 1987, ông đi làm chuyên gia ở Lào mới được các bác sĩ Liên Xô khám và tìm ra được mảnh lựu đạn găm sâu trong xương.

Gặp mặt cuối năm tại nhà riêng PGS Đào Xuân Sâm: từ trái qua: PGS.TS Nguyễn Văn Nam, PGS Đào Xuân Sâm, GS Trần Thành. Ảnh: NVH
Tháng 1/1947, tình hình sức khỏe ổn định, ông Sâm liền trở lại thị xã Hà Đông nơi đóng trụ sở của Tiểu đoàn 56 để hỏi thăm tin tức của đơn vị cũ thì được tin nhiều người trong đơn vị đã hi sinh khi chiến đấu ở khu vực Giảng Võ, Đê La Thành.
PGS Đào Xuân Sâm kể lại: "Dù trang bị thiếu thốn nhưng mọi người vẫn chiến đấu anh dũng, không rời bỏ vị trí. Đại đội trưởng Vũ Công Định chỉ huy mọi người đã chặn đứng cuộc tiến công với quy mô của quân Pháp trên hai hướng Giảng Võ và Ô Chợ Dừa.
Tiểu đoàn tiêu diệt nhiều khí tài và gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp, nhưng đại đội trưởng Vũ Công Định cũng hy sinh". Sau đó ông được phân vào đại đội khác mới thành lập do ông Lâm Văn Do làm Đại đội trưởng đóng quân ở vùng Hạ Trì, Đa Sỹ, Hà Đông.
Tây Tiến
Sau nhiều ngày bao vây địch trong thành phố, ngày 17/2/1947, các đơn vị chiến đấu rút dần ra khỏi thành phố Hà Nội, quân Pháp mở rộng đánh chiếm ra xung quanh. Ông Sâm đang chỉ huy nhóm trinh sát, phụ trách hậu cần được lệnh rút lui qua sông Nhuệ trước. Ông Do cùng đơn vị ở lại chiến đấu và hi sinh. Đại đội tan rã, ông được cử làm Chính trị viên trung đội 3, tiểu đoàn 56 và cử xuống làng Đốc Tín, gần Đục Khê chùa Hương để học chính trị.
Giữa năm 1947, ông Sâm cùng các đồng đội trong tiểu đoàn 56 tham gia cuộc hành quân lên vùng Tây Bắc. Những ngày vắt rừng, đá núi và sốt rét cắt da chưa bao giờ khiến ông và đồng đội nao núng, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, đúng như tinh thần trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng: Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc/Quân xanh màu lá dữ oai hùm/ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

PGS Đào Xuân Sâm và những hồi tưởng gắn với thời khắc lịch sử không bao giờ quên. Ảnh: NVH
PGS Đào Xuân Sâm tâm sự: "Khi hành quân, chúng tôi thường khuyên nhau rằng: không có mặt mình trong con đường đi đến vinh quang" – một cách nói giản dị mà thấm đẫm tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Trong cuộc hành quân ấy, nhiều đồng đội đã hi sinh vì căn bệnh sốt rét, nhưng mọi người luôn động viên và chăm sóc nhau rất tận tình. Đến tỉnh Phú Thọ, đơn vị ông được biên chế vào trung đoàn 148 (trung đoàn Sơn La), một số đại đội khác về chiến đấu mặt trận Liên khu 10, sau trở thành những đơn vị của trung đoàn Sông Lô, đại đoàn 312. Sau đó, ông được cử đi học 5 tháng ở trường Bổ túc sĩ quan ở Thái Nguyên.
Năm 1950, chính trị viên Đào Xuân Sâm được điều về làm huấn học ở phòng Chính trị, ban Huấn học của trường Lục quân Việt Nam (nay là trường Đại học Trần Quốc Tuấn). Trải qua nhiều cương vị công tác, năm 1958, ông Sâm xuất ngũ và đi học khoa Kinh tế công nông nghiệp, trường Đại học Kinh tế kế hoạch (nay là trường Đại học Kinh tế quốc dân). Trải qua nhiều cương vị khác nhau, sau này, ông trở thành Phó Giáo sư ngành Kinh tế năm 1984, Trưởng khoa Quản lý kinh tế, trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là khoa Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
PGS Đào Xuân Sâm sinh năm 1925, quê Mỹ Đức, Hà Nội. Ông là nhà giáo – nhà khoa học, đã có hơn 50 năm tuổi nghề. Từ năm 1950, ông đã giảng dạy chính trị tại Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam. Năm 1961, ông tốt nghiệp đại học, chuyên ngành kinh tế công nghiệp.
Trong hơn 50 năm liên tục từ 1961, ông làm nghiên cứu, giảng dạy với cương vị trưởng khoa hoặc bộ môn kinh tế trong nhiều trường đại học công, trường Đảng, đại học dân lập. Cũng trong 50 năm ấy, đã liên tục được cơ quan của Trung ương Đảng và Nhà nước sử dụng làm nghiên cứu tư vấn. Ông là Tổ trưởng Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt và thành viên của Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải.
Tại khoa Quản lý kinh tế, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ông giữ chức vụ: Phó trưởng khoa từ năm 1977, trưởng khoa từ 1981 đến 1990, Chủ tịch Hội đồng khoa học từ 1981 đến 1994.
Trên 20 năm gắn bó với Khoa Quản lý kinh tế là thời kỳ ông có hoạt động khoa học và tư vấn sôi nổi nhất, đã công bố trên 100 bài và sách nghiên cứu. Đặc điểm chung và nổi bật của những bài và sách nghiên cứu đó là đề cập khía cạnh đổi mới tư duy, chủ yếu là tư duy kinh tế. Từ đó đã có đóng góp thiết thực vào quá trình đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. Nhiều bài và sách nghiên cứu của ông được đông đảo đồng nghiệp, học viên và người làm công tác quan tâm tìm đọc tham khảo.
Năm 1992, ông được tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, được Học viện chứng nhận đạt thành tích khoa học loại xuất sắc trong giai đoạn 1986-1991.
Link nội dung: https://congdankhuyenhoc.vn/pgsts-dao-xuan-sam-song-mai-nhung-ngay-thang-lich-su-cung-thu-do-179251209104747902.htm
