Một số giải pháp đột phá phát triển giáo dục mầm non trong kỷ nguyên mới
Chăm lo, chú trọng phát triển giáo dục mầm non, giáo dục ban đầu hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học, không chỉ là mục tiêu, mà trở thành động lực phát triển, trọng tâm đột phá trong phát triển đất nước.

1
Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, nhấn mạnh "Giáo dục mầm non, phổ thông là nền tảng hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học"; góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam mới có lòng yêu nước và tự hào dân tộc, đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, trình độ, sức khỏe để đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, nhiều văn bản quan trọng về giáo dục mầm non được ban hành. Thể chế, định hướng phát triển giáo dục mầm non của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản thực thi hiệu quả chủ trương, chính sách phát triển giáo dục mầm non, bảo đảm quyền học tập, cơ hội tiếp cận công bằng và nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi trẻ em ở các vùng, miền trong cả nước.
Giáo dục mầm non Việt Nam có những bước tiến vượt bậc về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục phát triển toàn diện trẻ em. Cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi. Mạng lưới trường, lớp mầm non không ngừng được củng cố, mở rộng, phát triển đa dạng các loại hình, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về giáo dục mầm non của người dân [1].
Chương trình giáo dục mầm non có sự điều chỉnh, bổ sung cơ bản phù hợp với điều kiện thực tế. Chú trọng đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, tạo cơ hội, điều kiện cho trẻ em mầm non được tiếp cận giáo dục phù hợp với nhu cầu và khả năng của trẻ.
Chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục từng bước được nâng lên, chuẩn bị các điều kiện cho trẻ em mầm non 5 tuổi sẵn sàng vào tiểu học ở mọi vùng miền, đặc biệt là trẻ em vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Công tác bảo đảm an toàn, phòng chống tai nạn thương tích, dịch bệnh và dinh dưỡng học đường được chú trọng, kết hợp phát triển vận động với chế độ dinh dưỡng, giúp giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và khống chế tình trạng thừa cân, béo phì ở trẻ mầm non [2].
Ứng dụng công nghệ và học liệu số trong tổ chức hoạt động giáo dục mầm non góp phần từng bước chuẩn hóa nội dung giáo dục theo định hướng phát triển toàn diện cho trẻ, thúc đẩy phối hợp giữa gia đình - nhà trường - cộng đồng.
Để bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, chương trình tăng cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số đã được triển khai, góp phần tăng số lượng trẻ em dân tộc thiểu số tới trường, giúp trẻ tự tin hơn khi vào lớp Một. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non cơ bản đã được chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất nghề nghiệp, từng bước đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo [3].
Công tác phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em có nhiều chuyển biến tích cực, tạo điều kiện cho trẻ em được học tập trong môi trường an toàn, thân thiện và phát triển toàn diện.
Tuy nhiên, giáo dục mầm non vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Mạng lưới trường lớp chưa được quy hoạch đồng bộ, còn tình trạng thiếu trường, lớp học, các điều kiện về cơ sở vật chất, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo khu đông dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất và các thành phố lớn [4].
Quan điểm, mục tiêu phát triển toàn diện trẻ em Việt Nam theo hướng tích hợp các yêu cầu về chất lượng, công bằng và tính hòa nhập, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, góp phần xây dựng và cụ thể hóa giá trị con người Việt Nam trong thời đại mới, chưa được tích hợp, liên thông xuyên suốt trong chương trình. Những vấn đề mới, xu thế phát triển giáo dục, kĩ năng sống, công nghệ số, quyền trẻ em, bình đẳng giới, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, chưa được cập nhật, bổ sung.

Phát triển toàn diện trẻ em mầm non về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách. Ảnh: VGP
Nhất là, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi nhằm chuẩn bị từ sớm cho trẻ em những năng lực sáng tạo, khám phá, cảm xúc, ngôn ngữ cần thiết trong môi trường hiện đại, nền móng giá trị cốt lõi của công dân Việt Nam thế kỷ 21.
Giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập phát triển chưa đồng đều, chưa chưa tạo điều kiện và đảm bảo cho mọi trẻ em đều hưởng lợi từ giáo dục mầm non. Tình trạng thiếu giáo viên mầm non ở nhiều địa phương chưa được giải quyết triệt, chất lượng đội ngũ giáo viên chưa bảo đảm, còn chênh lệch giữa vùng, miền [5].
Công tác đào tạo giáo viên mầm non trong các nhà trường, khoa sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi hiện đại hóa thực hành sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ, năng lực tương tác, trải nghiệm thực tiễn… còn bất cập, hạn chế.
Chương trình đào tạo thiếu đổi mới, chưa chú trọng đến phát triển chương trình đào tạo theo hướng trẻ em là trung tâm của quá trình giáo dục, chủ thể trong hoạt động và giao tiếp, còn tách biệt giữa nhà trường sư phạm với cơ sở giáo dục mầm non. Một bộ phận đội ngũ giảng viên, chưa được đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành giáo dục mầm non, khoa học sư phạm mầm non, thiếu kiến thức, kỹ năng trải nghiệm trong thực tiễn và chưa chuyên môn hóa.
Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ, năng lực tương tác, trải nghiệm thực tiễn trong nội dung, chương trình đào tạo và trong các khóa tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ còn nhiều bất cập.
Chính sách đãi ngộ và điều kiện làm việc của đội ngũ giáo viên mầm non còn nhiều điểm chưa phù hợp. Chưa có chính sách đột phá để phát triển giáo dục mầm non tại các khu vực có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn như, vùng Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, đồng bào dân tộc thiểu số...
Một bộ phận giáo viên mầm non còn chậm đổi mới phương pháp, hạn chế về năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là năng lực ngoại ngữ. Năng lực quản trị nhà trường, tư vấn, hỗ trợ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ quản lý, nhân viên trong các nhà trường mầm non còn hạn chế nhất định…
Đánh giá toàn diện cho thấy, bên cạnh những kết quả quan trọng, giáo dục mầm non vẫn còn những điểm nghẽn, hạn chế, bất cập và rất cần phải có những giải pháp tập trung ưu tiên nhằm hiện thực hóa quan điểm chỉ đạo "Giáo dục mầm non, phổ thông là nền tảng hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học", góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới được xác định trong Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị.

Trẻ em Trường mầm non Sơn Ca 14, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh được phụ huynh đăng ký gửi trẻ trong hè năm 2024. Ảnh: Thanh Niên
2
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) khuyến nghị Việt Nam cần đảm bảo mọi trẻ em được tiếp cận giáo dục mầm non chất lượng cao, sẵn sàng cho lớp Một. Các khuyến nghị bao gồm giảm học phí để tăng khả năng tiếp cận giáo dục mầm non, đặc biệt là đối với các gia đình có thu nhập thấp, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ [6].
Đất nước ta đang đứng trước vận hội lịch sử để phát triển bức phá, yêu cầu xây dựng con người, xây dựng nguồn nhân lực đặt ra rất quan trọng và cấp bách. Để thực hiện sứ mạng kỳ vọng của giáo dục, hoàn thành nhiệm vụ đặt nền móng phát triển toàn diện con người Việt Nam có lòng yêu nước và tự hào dân tộc, đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, trình độ, sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, phát triển giáo dục mầm non trong kỷ nguyên mới theo hướng công bằng, chất lượng, hòa nhập và bền vững cần tập trung đảm bảo các điều kiện về trường, lớp học, cơ sở vật chất, đội ngũ, chương trình giáo dục và đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách, huy động các nguồn lực hỗ trợ…
Đồng thời, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng, bản sắc văn hóa dân tộc, để đào tạo thế hệ công dân Việt Nam toàn diện, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững.
Đặc biệt, dự thảo báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XIV của Đảng tiếp tục nhấn mạnh giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước; phát triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp.
Trong đó, chăm lo phát triển văn hóa, giáo dục, y tế chú trọng giáo dục mầm non, giáo dục ban đầu hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học, không chỉ là mục tiêu, mà trở thành động lực phát triển, trọng tâm đột phá trong phát triển đất nước và là nhu cầu, nguyện vọng của mỗi gia đình, cộng đồng và địa phương.
Một số giải pháp trọng tâm tập trung phát triển giáo dục mầm non trong kỷ nguyên mới
1. Thống nhất giáo dục mầm non, cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vị trí đặc biệt quan trọng trong suốt cuộc đời phát triển của mỗi con người; có trách nhiệm hướng dẫn sự phát triển cho trẻ em đúng hướng, toàn diện và vững chắc về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, nền tảng vững chắc cho xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.
Các cấp ủy, tổ chức đảng và cả hệ thống chính trị nghiêm túc quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phát triển giáo dục mầm non trong giai đoạn mới, tổ chức triển khai hiệu quả nhiệm vụ phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi theo nguyên tắc không trẻ em nào bị bỏ lại phía sau được xác định rõ trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.
2. Hoàn thiện thể chế, cơ chế bảo đảm các điều kiện tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật về phát triển giáo dục mầm non và Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng.
Lưu ý, tập trung: Bảo đảm đủ phòng học, trang thiết bị đạt chuẩn, nhất là ở các vùng nông thôn, đồng bào dân tộc, miền núi, biên giới, hải đảo, phấn đấu đến năm 2030 tỉ lệ phòng học được kiên cố hoá đạt 100%; Bảo đảm đủ số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Có chính sách thu hút, ưu đãi đối với giáo viên, người làm công tác phổ cập; Mở rộng, ưu tiên, quan tâm chính sách đối với trẻ em khó khăn, trẻ em người đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ em khuyết tật; Phấn đấu đến năm 2030, 100% đơn vị cấp tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mầm non từ 3 đến 5 tuổi.
3. Sớm ban hành Chương trình giáo dục mầm non mới liên thông với Chương trình giáo dục phổ thông 2018 gắn với Chương trình chăm sóc sức khỏe học đường.
Lưu ý, chương trình xây dựng có tầm nhìn, tính dự báo phù hợp với sự thay đổi của tương lai. Đưa nội dung giáo dục sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục kĩ năng nền tảng, giáo dục tình yêu gia đình, quê hương đất nước, bảo vệ môi trường, phát triển toàn diện đức, trí, thể, mĩ xuyên suốt trong chương trình giáo dục trẻ em ở các lứa tuổi.
Tăng cường giáo dục các hoạt động trải nghiệm, gắn bó với thiên nhiên và mở rộng cơ hội tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai. Thực hiện hiệu quả chương trình tăng cường chuẩn bị tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ của trẻ cho trẻ em dân tộc thiểu số.
4. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu phát triển nền giáo dục mầm non hiện đại. Đa dạng hình thức, chương trình đào tạo trong các trường sư phạm, khoa sư phạm mầm non theo hướng "kiến thức - kỹ năng - thái độ" bảo đảm sinh viên vừa đạt chuẩn năng lực nghề nghiệp quốc gia vừa có khả năng hội nhập quốc tế và thích ứng với sự thay đổi của thời đại.
Thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, quản trị nhà trường cho đội ngũ giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non để xây dựng nguồn nhân lực mầm non chuyên nghiệp.
Nghiên cứu xây dựng hệ sinh thái học tập trong giáo dục mầm non, môi trường học tập đa chiều giúp trẻ phát triển về tư duy sáng tạo, logic, hợp tác và giải quyết vấn đề ngay từ giai đoạn đầu đời và chủ động học tập phù hợp với khả năng.
5. Huy động các nguồn lực chăm lo, phát triển giáo dục mầm non tạo cơ hội tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non chất lượng đến mọi đối tượng trẻ em. Tập trung đầu tư kiên cố hóa, hiện đại hóa trường, lớp mầm non, chú trọng không gian vui chơi, môi trường rèn luyện thể chất cho trẻ em.
Xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp đầu tư phát triển giáo dục mầm non; đẩy mạnh hợp tác công tư; ưu tiên vốn tín dụng cho các dự án phát triển giáo dục mầm non; tạo điều kiện cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước đầu tư xây dựng phát triển giáo dục mầm non ngoài công lập có chất lượng, nhất là các cơ sở giáo dục mầm non độc lập loại hình dân lập, tư thục tại khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị đông dân cư.
Gắn kết, phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em mầm non ngay. Coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ đến các gia đình, cha mẹ, cộng đồng và chính quyền địa phương.
Thường xuyên tổ chức các hoạt động phát triển sức khỏe, thể chất, kỹ năng, chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em mầm non với sự sự tham gia có trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục mầm non. Nghiên cứu, vận dụng những mô hình, phương pháp giáo dục mầm non tiên tiến, hiện đại để xây dựng kho học liệu, tài nguyên giáo dục mầm non mở, cung cấp miễn phí cho giáo viên, cha mẹ và cộng đồng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, quản trị nhà trường và kiểm tra, giám sát thực thi chủ trương, chính sách về giáo dục mầm non.
3
Giáo dục mầm non, cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có vị trí đặc biệt quan trọng trong suốt cuộc đời phát triển của mỗi con người; có trách nhiệm hướng dẫn sự phát triển cho trẻ em đúng hướng, toàn diện và vững chắc về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, nền tảng vững chắc cho xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.
Chăm lo, chú trọng phát triển giáo dục mầm non, giáo dục ban đầu hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học, không chỉ là mục tiêu, mà trở thành động lực phát triển, trọng tâm đột phá trong phát triển đất nước. Đây là thông điệp để chúng ta cùng chung tay, góp sức thúc đẩy giáo dục mầm non Việt Nam phát triển công bằng, bình đẳng, chất lượng, hòa nhập.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Đến nay, toàn quốc có 15.172 trường mầm non, trong đó, trường công lập chiếm khoảng 60% tổng số cơ sở cơ sở giáo dục mầm non, 3.148 trường mầm non dân lập, tư thục (chiếm tỉ lệ 20,7%) và 17.281 cơ sở giáo dục mầm non độc lập (nhóm, lớp). Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho giáo dục mầm non được quan tâm đầu tư theo hướng đảm bảo an toàn, thân thiện, xanh - sạch - đẹp, cả nước có 9.400 trường mầm non đạt chuẩn quốc gia (đạt tỉ lệ 61,7%); cơ bản đảm bảo 01 phòng học/01 lớp theo quy chuẩn; tỉ lệ kiên cố hóa trường, lớp học đạt 88,3%; sĩ số trung bình là 25,9 trẻ em/lớp, nhóm lớp.
[2]. Hiện có 99,36% trường mầm non đạt tiêu chuẩn an toàn, 100% trẻ được theo dõi sức khỏe định kỳ và đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo quy định.
[3]. Cả nước hiện có 284.789 giáo viên mầm non, trong đó công lập là 278.288 người; ngoài công lập là 106.251 người, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo là 98,3%.
[4]. Tỉ lệ kiên cố hóa ở khu vực khó khăn còn thấp (mới đạt 61,5%). Toàn quốc thiếu khoảng 27.953 phòng học, đặc biệt ở khu vực điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn vẫn tồn tại 6.477 phòng học nhờ, mượn. Thiết bị dạy học tối thiểu, thiết bị dùng chung đáp ứng nhu cầu ở mức trung bình. Thiết bị dạy học đáp ứng nhu cầu tối thiểu đạt khoảng 49,65%, trong đó ddối với nhóm trẻ: từ 3 đến 12 tháng tuổi đạt 37,10%; từ 12 đến 24 tháng tuổi đạt 31,81%; từ 24 đến 36 tháng tuổi đạt 47,43%; đối vói lớp mẫu giáo: từ 3 đến 4 tuổi đạt 61,32%; từ 4 đến 5 tuổi đạt 62,98%; từ 5 đến 6 tuổi đạt 64,59%. Thiết bị, đồ chơi ngoài trời mới đáp ứng nhu cầu 56,23% và thiết bị dùng chung đáp ứng 51,1% nhu cầu.
[5]. Cả nước còn thiếu khoảng 34.612 giáo viên thực hiện mục tiêu hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 - 5 tuổi đến năm 2030. Tỷ lệ giáo viên/lớp ở nhiều địa phương thấp hơn so với quy định, mới đạt 1,86 giáo viên/lớp (quy định 2,2 giáo viên/lớp), trong đó đối với các lớp mẫu giáo mới đạt 1,84 GV/lớp (thiếu 0,36 giáo viên/lớp tương ứng với khoảng 53.676 giáo viên dự báo đến năm 2030).
[6]. Đảm bảo quyền tiếp cận: UNICEF ủng hộ các chính sách như miễn học phí cho trẻ mầm non, học sinh, nhằm giảm bớt gánh nặng tài chính cho các gia đình và tăng cơ hội cho mọi trẻ em được đi học. Nâng cao chất lượng: UNICEF nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non, không chỉ dừng lại ở việc trẻ được đến trường mà còn phải được trang bị kỹ năng cần thiết trước khi vào lớp 1. Phối hợp với các đối tác: UNICEF, cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ngân hàng Thế giới, đã tổ chức các hội thảo để thúc đẩy các giải pháp đảm bảo giáo dục mầm non chất lượng và công bằng cho trẻ em Việt Nam.
[7]. Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
[8]. Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Phát triển Giáo dục mầm non trong kỷ nguyên mới", Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, tháng 12/2025.
*Bài viết của TS. Lê Thị Mai Hoa, TS. Nguyễn Thanh Hà Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương
Link nội dung: https://congdankhuyenhoc.vn/mot-so-giai-phap-dot-pha-phat-trien-giao-duc-mam-non-trong-ky-nguyen-moi-179251206120441862.htm


