Bài thơ "Hạ cuối' vào đề Ngữ văn 12
Bài thơ "Hạ cuối" của nhà thơ Dương Viết Cương vào đề kiểm tra cuối học kì 2 môn Ngữ văn 12 Trường Trung học cơ sở - Trung học phổ thông Hoa Lư, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường Trung học cơ sở - Trung học phổ thông Hoa Lư, Thành phố Hồ Chí Minh, vừa tổ chức kiểm tra học kì 2 năm học 2022-2023, trong đó đề môn Ngữ văn 12 nhận được nhiều sự yêu thích của học sinh.
Cấu trúc hoàn chỉnh một đề kiểm tra môn Ngữ văn 12
I. Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc văn bản sau:
Tôi viết cho ai bài thơ hạ cuối
Ve râm ran xao xác cả khung trời
Ồ vẫn vậy, vẫn ve, vẫn phượng,…
Cớ sao mình nước mắt lại rơi
Trận mưa đầu của ngày cuối chia phôi
Rơi ướt cả một bờ áo trắng
Vô tư thế, hỡi mưa, hỡi nắng?
Biết hay không hạ cuối đã về rồi?
Tháng 6 mùa thi
Ta bỏ lại một thời
Trong trắng như hoa
Hồn nhiên như cỏ
Cho kỷ niệm và cho nỗi nhớ
Cho những tháng ngày xanh biếc xanh.
Đôi mắt nào chiều ấy long lanh
Như muốn nói thật nhiều mà không thể
Tháng năm ơi sao trôi nhanh đến thế
Phượng bùng lên cháy đỏ một khung trời.
Lưu bút trao tay, ánh mắt trao lời
Màu mực tím mênh mang trang giấy trắng
Ai bật khóc trong chiều không bình lặng
Xa thật rồi, áo trắng học trò ơi.
(Hạ cuối, Dương Viết Cương)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định thể thơ của văn bản.
Câu 2. Mùa hạ cuối của tuổi học trò được gợi nhắc qua những từ ngữ, hình ảnh nào ở khổ thơ:
Tôi viết cho ai bài thơ hạ cuối
Ve râm ran xao xác cả khung trời
Ồ vẫn vậy, vẫn ve, vẫn phượng,…
Cớ sao mình nước mắt lại rơi
Câu 3. Nêu nội dung của đoạn thơ:
Đôi mắt nào chiều ấy long lanh
Như muốn nói thật nhiều mà không thể
Tháng năm ơi sao trôi nhanh đến thế
Phượng bùng lên cháy đỏ một khung trời.
Câu 4. Nhận xét tình cảm của tác giả được thể hiện qua bài thơ.
II. Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung bài thơ ở phần Đọc hiểu, hãy viết 1 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ suy nghĩ về ý nghĩa mùa hạ cuối của anh/chị ở Trường Trung học cơ sở - Trung học phổ thông Hoa Lư, Thành phố Hồ Chí Minh.
Câu 2 (5 điểm): Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó. Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng. Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay…" rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: "Đi với tôi". Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi."
(Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12, tập Hai, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2016, trang 14)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
Một số gợi ý - đáp áp đề kiểm tra Ngữ văn 12
I. Đọc hiểu
Câu 1. Thể thơ tự do.
Câu 2. Mùa hạ cuối của tuổi học trò được gợi nhắc qua những từ ngữ, hình ảnh: mùa hạ cuối, ve râm ran, phượng nở, nước mắt lại rơi.
Câu 3. Nội dung của đoạn thơ: Đôi mắt nào chiều ấy long lanh/ Như muốn nói thật nhiều mà không thể/ Tháng năm ơi sao trôi nhanh đến thế/ Phượng bùng lên cháy đỏ một khung trời: Cảm xúc nghẹn ngào, không nói nên lời khi phải chia xa tuổi học sinh. Sự nuối tiếc khi thời gian qua mau mà kí ức thì vẫn còn đong đầy.
Câu 4. Tình cảm của tác giả được thể hiện qua bài thơ: yêu mến mái trường, bạn bè, không muốn phải chia tay mùa hạ cuối.
II. Làm văn
Câu 1. Ý nghĩa mùa hạ cuối của học sinh lớp 12 ở Trường Trung học cơ sở-trung học phổ thông Hoa Lư.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn: Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Ý nghĩa mùa hạ cuối của học sinh lớp 12 ở Trường Trung học cơ sở-trung học phổ thông Hoa Lư.
c. Triển khai vấn đề nghị luận: Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa mùa hạ cuối của học sinh lớp 12 ở Trường Trung học cơ sở - Trung học phổ thông Hoa Lư.
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả ngữ pháp Tiếng Việt.
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
Câu 2. Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích "Vợ nhặt". Từ đó nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Mở bài giới thiệu được vấn đề; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích và tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận: Giới thiệu tác giả Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và nhân vật Mị trong đoạn trích (gắn với định hướng ở đề ra). Cảm trạng về nhân vật Mị trong đoạn trích
Về nội dung: Nêu ý chính của đoạn trích - tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ và trốn khỏi Hồng Ngài sang Phiềng Sa.
Từ vô cảm đến đồng cảm: Những đêm trước nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm. Đêm ấy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị (gợi cho Mị nhớ về quá khứ đau đớn của mình, Mị thấy thương xót cho người cùng cảnh ngộ).
Nhận ra sự độc ác và bất công: Từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, thấy người kia việc gì mà phải chết.
Hành động cứu người: Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế Mị cũng không thấy sợ. Tình thương và lòng căm thù đã giúp Mị có sức mạnh để quyết định cứu người và liều mình cắt dây trói của A Phủ.
Tự giải thoát cuộc đời mình: Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng…; lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ.
Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật: Tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật tài tình; xây dựng nhân vật sinh động, có cá tính; ngôn ngữ sinh động, sáng tạo, giàu tính tạo hình.
Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn: Sử dụng các câu văn tạo nhịp điệu cho lời kể "Lúc ấy đã khuya,"; "Lúc ấy trong nhà đã tối bưng",... tạo cảm giác về tình huống truyện căng thẳng, kịch tính. Sử dụng nhiều chi tiết miêu tả bóng tối (Đám than đã vạc hẳn lửa; trong nhà tối bưng; Mị đứng lặng trong bóng tối; trời tối lắm,..) lại có tác dụng tô đậm quá trình tỉnh ngộ, đi từ bóng tối ra ánh sáng giải thoát của nhân vật.
Nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài (0,5 điểm): Nhà văn trân trọng phát hiện và ngợi ca sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do của người lao động bị áp bức trong xã hội cũ. Nhà văn tìm hướng đi cho nhân vật thoát khỏi cuộc đời khổ đau, bế tắc (so sánh với các tác phẩm văn học hiện thực phê phán trước cách mạng).
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề cần nghị luận.
Link nội dung: https://congdankhuyenhoc.vn/bai-tho-ha-cuoi-vao-de-ngu-van-12-179230423125530335.htm