Văn hóa phi vật thể Việt Nam và sứ mệnh hội nhập
Văn hóa phi vật thể Việt Nam đã và đang hòa vào dòng chảy và từng bước hội nhập sâu rộng với nền văn hóa nhân loại, tạo đà ở mọi cấp độ, mức độ và phạm vi khác nhau để từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế và văn hóa thế giới.
Cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam
Nhìn về ngọn nguồn lịch sử hình thành cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam, có thể nhận thấy hệ thống các phong tục, tập quán và các hình thức sinh hoạt thực hành văn hóa cũng như hoạt động của hàng trăm làng nghề truyền thống cùng các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, mỹ thuật khác với sự tích lũy cô đọng thành kho tàng tri thức bản địa khổng lồ của 54 dân tộc (bao gồm hơn 700 tộc người địa phương) trên tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, làm ăn và đánh giặc.
Tất cả các nguồn vốn văn hóa này chủ yếu dựa trên ý thức - tâm lý tri ân, sùng bái sức mạnh phù trợ của các lực lượng tự nhiên giúp cho con người bảo tồn sự sống (như đất, cây, nước, và các tài nguyên thiết yếu với cuộc sống khác) cùng lòng biết ơn và ngưỡng mộ của các thế hệ nối tiếp nhau đối với tiền thần, tiền nhân, xây kết nên những giá trị văn hóa mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Từ tâm thức hướng tâm và tâm lý sùng bái, tri ân hoặc tôn vinh quá khứ lịch sử đó, trong các cộng đồng dân tộc, tộc người đã hình thành/sáng tạo nên "sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác".(1)
Trong đó, hiện tồn một cách sinh động các phong tục tập quán và vô vàn những cách thức thực hành nghi lễ, lễ hội, tín ngưỡng, thể hiện nhận thức cũng như quan điểm ứng xử của cộng đồng với môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường sinh thái nhân văn và môi trường văn hóa xã hội, trên tiến trình lịch sử.
Đó là "bệ đỡ" cho sự ra đời của hàng loạt các di tích lịch sử - văn hóa cùng hệ thống phong phú, đa dạng các hình thức thực hành di sản văn hóa phi vật thể, tạo nên bản sắc và truyền thống văn hóa của một cộng đồng người nhất định, trong cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Kho tàng văn hóa phi vật thể Việt Nam
Dõi theo dòng chảy của kho tàng di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam, có thể nhận thấy, tâm lý và ý thức của cộng đồng hai dân tộc Việt - Mường hướng về cội nguồn được thể hiện qua nhiều hình thức thực hành đa dạng. Trong đó, tín ngưỡng tôn sùng tổ tiên như một phần trong hệ thống sinh hoạt tín ngưỡng Việt Nam, được thể hiện qua phong tục thờ cúng nhân vật được coi là thủy tổ của một tộc người, một dân tộc hay một quốc gia - nhà nước với hiệu danh Quốc Tổ (chẳng hạn như Lạc Long Quân - Âu Cơ, Hùng Vương), hay những người có công khai phá, tạo lập làng/bản, lập nên các chiến công trong quá trình dựng nước hoặc giữ nước, đánh đuổi ngoại xâm bảo vệ cộng đồng và mở mang bờ cõi, được vinh danh là thành hoàng làng, cho đến các bậc tổ tiên mỗi dòng họ, ông bà trong mỗi gia đình.
Thực tế đó đã bồi đắp, tôn tạo qua các thế hệ để hình thành nên những hệ giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện một cách liền mạch tâm lý hướng tâm của cộng đồng nhỏ tạo cơ sở cho sự hình thành văn hóa làng bản, từ đó vươn tới một cộng đồng lớn (vùng - miền - quốc gia), trong hệ thống cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Tiếp bước các thế hệ tiền nhân của cộng đồng Việt Mường, hàng chục các dân tộc, tộc người tràn xuống từ phương bắc hoặc ngược dòng hội tụ từ phương nam đến cùng đồng tâm cộng cư, cộng mệnh, cộng cảm để hướng tới sự đồng thuận trong quá trình cùng tồn tại, cùng gắn bó với vận mệnh của một quốc gia, một cộng đồng đa dân tộc.
Từ đó, góp phần sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa và định hình/xây đắp/tôn tạo nên các giá trị văn hóa, làm cho hệ thống kho tàng văn hóa dân tộc ngày càng đa dạng, sinh động, dù rằng mỗi dân tộc, tộc người vẫn giữ gìn được những nét văn hóa mang tính bản sắc riêng của dân tộc mình.
Bên cạnh kho tàng di sản văn hóa phi vật thể chắt đọng từ văn hóa dân gian như đã đề cập trên đây, kho tàng văn hóa phi vật thể Việt Nam còn hiện tồn phong phú, đa dạng các loại hình văn hóa ngôn từ thành văn và các loại hình nghệ thuật, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh hiện đại, các hình thức biểu đạt văn hóa khác nhau của cuộc sống đương đại.
Sự hiện tồn song hành di sản văn hóa dân gian bên cạnh di sản văn hóa chính thống, thành văn và đặc biệt là sự nở rộ của kho tàng văn hóa phi vật thể đương đại đã làm cho nền văn hóa đa dạng trong cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam càng thêm phong phú, khởi sắc, đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại những giá trị vừa mang bản sắc văn hóa dân tộc, tộc người, vừa đồng thuận hòa nhịp với giá trị văn hóa chung của cộng đồng quốc tế trong bối cảnh giao lưu, hội nhập.
Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
Thực ra, hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa phi vật thể Việt Nam là một bộ phận đa dạng và cực kỳ phong phú của các dân tộc, tộc người đã bước vào quá trình giao lưu hội nhập từ rất sớm. Ngay từ chặng đường tiền sử ban đầu của quá trình hình thành nhà nước Văn Lang thời đại các vua Hùng, giới khảo cổ học đã qua các di vật tìm thấy trong lòng đất cùng các bước so sánh sự hiện tồn của các nếp sống, phong tục tập quán, thực hành tín ngưỡng và tri thức địa phương đã từng khẳng định văn hóa Việt Mường từ cách nay trên dưới ba, bốn ngàn năm đã có sự giao lưu, hội nhập, thậm chí lan tỏa ra các vùng, miền thuộc phía nam sông Dương Tử của Bách Việt hoặc du nhập vào một số quốc gia phía nam Đông Nam Á.
Đến những năm trước và sát sau Công nguyên, sự giao lưu, du nhập văn hóa giữa cư dân vùng đất Âu Lạc với ngoại bang càng lộ rõ. Đó trước hết là sự du nhập của văn hóa Phật giáo từ Ấn Độ qua đường biển vào vùng đất Giao Châu (miền bắc hiện nay) hoặc đồng thời là bước đường du nhập qua Trung Quốc trước khi vào Việt Nam bên cạnh sự du nhập của Đạo giáo với các hình thái vừa mới lạ, vừa hấp dẫn và có điều kiện hội nhập với văn hóa phi vật thể bản địa, đặc biệt là các thực hành tín ngưỡng ở các vùng, miền.
Tuy nhiên, mặc dù phải nghênh đón sự tràn ngập của văn hóa ngoại lai nhưng với sự hiện tồn của thành lũy văn hóa làng và sau đó là văn hóa làng - bản, nền văn hóa mang bản sắc bản địa của dân tộc Kinh/Việt cũng như của các dân tộc, tộc người anh em khác như Tày, Nùng, Thái,…vẫn đủ sức đứng vững trước áp lực đồng hóa của văn hóa nghìn năm Bắc thuộc và sau đấy là mười thế kỷ các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lấn.
Sức mạnh mềm của nền văn hóa mang bản sắc dân tộc đã bảo tồn được giá trị và hệ giá trị văn hóa Việt Nam vốn được sáng tạo, trao truyền, tiếp nối qua các thế hệ.
Cho đến cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc, tộc người Việt Nam đã lại đủ sức du nhập, hội nhập và tiếp biến để đón nhận những nét tích cực từ văn hóa phương Tây với sự hiện diện của chữ viết, báo chí, nếp sống đô thị và các sản phẩn văn hóa khác của quá trình công nghiệp hóa và khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp.
Đến nửa sau thế kỷ XX là sự du nhập, hội nhập của văn hóa phương Tây (từ đế quốc Mỹ) và văn hóa xã hội chủ nghĩa (trong tâm là từ văn hóa Liên Xô và Trung Quốc hiện đại).
Trong khoảng trên dưới hai chục năm trở lại đây, văn hóa phi vật thể Việt Nam đã và đang hòa vào dòng chảy và từng bước hội nhập sâu rộng với nền văn hóa nhân loại, tạo đà ở mọi cấp độ, mức độ và phạm vi khác nhau để từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế và văn hóa thế giới.
Ở phạm vi kinh tế, Việt Nam đã hoàn tất và bắt tay thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như TPP, FTA với Cộng đồng các nước châu Âu, là thành viên tham gia tích cực của Liên minh kinh tế Á - Âu,… Song hành với quan hệ kinh tế mang tính toàn cầu, sự mở rộng quan hệ hợp tác văn hóa cũng đã và đang phát triển sâu rộng.
Hàng loạt các hình thức tổ chức Tuần văn hóa song phương giữa các nước có quan hệ đối tác chiến lược hoặc quan hệ hữu nghị tốt đẹp với Việt Nam đã được tổ chức. Nhiều hiệp định quan hệ phát triển văn hóa và du lịch giữa Việt Nam với các nước đã được ký kết, thể hiện hiệu quả thực tiễn ở những chương trình quảng bá và giao lưu văn hóa nghệ thuật, thu hút khách du lịch Việt Nam đi các nước và ngược lại.
Nhiều cuộc hội thảo khoa học quốc tế về di sản văn hóa Việt Nam đã được tổ chức trong nước và một số nước có nền khoa học tiên tiến. Hàng loạt các di sản văn hóa phi vật thể của nhiều dân tộc, tộc người ở Việt Nam đã được UNESCO quan tâm xét duyệt và ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa của nhân loại.
Dưới góc độ khoa học công nghệ, cũng trong vòng trên dưới hai chục năm qua, Việt Nam đã có sự chủ động trong sự nghiệp đào tạo chuyên sâu cả trong nước và ở nhiều nước có nền khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, tạo ra nguồn nhân lực ngày một tăng, góp phần chuyển dịch tích cực trong công nghệ thông tin, điện toán đám mây, doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp.
Cho đến nay, theo Báo cáo Việt Nam DIGITAL do We are social và Hootsuite thống kê, tính đến thời điểm tháng 1/2021, Việt Nam đã có 68,72 triệu người dùng Internet trên tổng số 97,8 triệu người.(2)
Theo báo cáo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), do Trường đại học Cornell và Viện nghiên cứu Instead công bố, Việt Nam được xếp hạng 47/127 về đổi mới sáng tạo toàn cầu, tăng 12 bậc so với năm 2016.
Trong ASEAN, Việt Nam đứng trên Thái Lan, được đánh giá có thế mạnh về đầu ra tri thức và công nghệ; chỉ số phức tạp/đa dạng của thị trường; chỉ số phức tạp/đa dạng kinh doanh; chỉ số đầu ra sáng tạo và chỉ số tăng trưởng đầu tư cho giáo dục…(3)
Trên đà giao lưu và hội nhập văn hóa trong bối cảnh sôi động và phức tạp đó của môi trường văn hóa toàn cầu, văn hóa phi vật thể Việt Nam đã và đang là nguồn lực và năng lượng quan trọng giữ vai trò chủ đạo cho chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa trong nước cũng như tạo nên "sức mạnh mềm" thu hút và thúc đẩy phát triển du lịch ở hầu khắp các tỉnh thành trên phạm vi cả nước.
Có thể nói, trong lịch sử dân tộc, Việt Nam chưa bao giờ có cơ hội tiếp thu những giá trị từ nhiều nền văn hóa như hiện nay. Nhưng đồng thời cũng phải khách quan để nhận thấy rằng, Việt Nam ta cũng chưa bao giờ chứa đựng nhiều mối nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc và chịu sự tác động của không ít loại văn hóa tiêu cực đến môi trường văn hóa của/ở các vùng miền như hiện nay.
Đứng trước sứ mệnh hội nhập to lớn trong bối cảnh lịch sử toàn cầu như vậy, văn hóa phi vật thể Việt Nam luôn trở thành một trong những yếu tố quan trọng của giao lưu văn hóa và sức mạnh mềm để thúc đẩy quá trình phát triển văn hóa Việt Nam.
Cũng nhờ đó, thông qua giao lưu và hợp tác văn hóa mà Việt Nam tiếp thu, nắm bắt được những thành tựu văn minh, những tinh hoa văn hóa của nhân loại để hướng tới mục tiêu "phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc", trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, bình đẳng và cùng có lợi, tự chủ, tự quyết, phù hợp với lợi ích và luật pháp quốc tế.
Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên mà, khi nhắc lại sự hiện tồn của các hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam, chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (với sự hào hứng của mình) trong Hội nghị văn hóa toàn quốc tổ chức tại Hà Nội tháng 11/2021, nhấn mạnh: "Việt Nam là một đất nước có hơn 4 nghìn năm lịch sử, trải qua không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã tích luỹ, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng của Dân tộc, làm nên hồn cốt của Dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền văn hoá chung của nhân loại".(4)
Tổng Bí thư cũng khẳng định, muốn hướng đến một dân tộc xứng danh có văn hóa cần phải chú trọng xây dựng văn hoá ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội, đồng thời quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại; phát triển "sức mạnh mềm" của văn hoá Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới.
Chú thích:
(1) Quốc hội. Điều 1, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa. Ngày 18/6/2009.
(2) We Are Social, Hootsuite. Báo cáo Việt Nam DIGITAL. 2021.
(3) GS.TSKH. Nguyễn Mại. Cách mạng công nghiệp 4.0 với Việt Nam. Báo Đầu tư, ngày 23/2/2018.
(4) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc. Thời báo Văn học Nghệ thuật, số 47 (70), ngày 25/11/2021.
Link nội dung: https://congdankhuyenhoc.vn/van-hoa-phi-vat-the-viet-nam-va-su-menh-hoi-nhap-17922110410564577.htm