Từng bước tạo lập thị trường vàng hiện đại, minh bạch, ổn định giá và hội nhập với thế giới
Nhà nước không kinh doanh vàng mà đẩy mạnh "kiến tạo thị trường" thay vì chỉ quản lý hành chính. Mục tiêu hướng tới là tạo ra một cơ chế thị trường lành mạnh, minh bạch, thông suốt và có định hướng theo đúng pháp luật.

Cảnh đông đúc mua bán trong các tiệm vàng Hà Nội gần đây. Ảnh: Minh Châu
Nhiều năm qua, vàng vẫn được coi là một trong những kênh tích trữ tài sản quan trọng của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường vàng trong nước lại tồn tại tình trạng thiếu ổn định và chênh lệch lớn với giá thế giới.
Có thời điểm, chênh lệch giữa giá vàng SJC và vàng quốc tế lên tới 15-20 triệu đồng/lượng, phản ánh sự bất cập của thị trường cũng như khâu quản lý, cung ứng. Vàng miếng SJC gần như giữ vị thế độc quyền, khiến cung cầu bị bó hẹp, giá cả dễ biến động mạnh khi tâm lý người dân thay đổi.
Trong khi đó, Việt Nam chưa tạo lập được một thị trường vàng hiện đại, minh bạch đúng nghĩa nên giá vàng trong nước thường "đi lệch" với thế giới.
Ngày 10/10/2025, Nghị định 232/2025/NĐ-CP có hiệu lực được kỳ vọng sẽ tạo ra bước ngoặt cho thị trường vàng bằng cách xóa bỏ độc quyền sản xuất vàng miếng, minh bạch hóa giao dịch thông qua thanh toán bắt buộc qua ngân hàng đối với các giao dịch từ 20 triệu đồng trở lên, và mở rộng các chủ thể được tham gia thị trường. Mục tiêu là xây dựng một thị trường vàng hiện đại, minh bạch, ổn định hơn, gắn kết chặt chẽ với hệ thống tài chính quốc gia.

PGS.TS Nguyễn Văn Nam (nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương Mại, Bộ Công thương).
Vàng không chỉ là tiền mà còn là niềm tin
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Nam (nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương Mại, Bộ Công thương) thì nhu cầu mua vàng ở Việt Nam luôn rất lớn bởi nhiều nguyên nhân.
Đầu tiên phải kể đến tâm lý người Việt giữ vàng phòng thân. Người nhiều thì vài cây, người ít thì vài chỉ cất két phòng khi biến động để khi cần thì bán ra lấy tiền, đó là chưa kể đến vàng trang sức đeo trên người. Ngay trong văn hóa, lễ cưới của các gia đình thì người thân thường mua vàng tặng cô dâu… vàng này ít khi bán ra, làm cho lượng vàng lưu thông trên thị trường giảm.
Thứ hai là nguồn cung hạn chế, từ sau Nghị định 24/2012/NĐ-CP, việc sản xuất vàng miếng tập trung chủ yếu ở thương hiệu SJC, khiến thị trường thiếu tính cạnh tranh.
Thứ ba là các công cụ điều tiết thị trường chưa đủ, nhất là việc Việt Nam chưa có sàn vàng vật chất quốc gia nên Nhà nước vẫn phải can thiệp bằng các hình thức khác nhau.
Cuối cùng là niềm tin, người dân thường chọn vàng hoặc ngoại tệ để cất giữ hơn là tiền Việt Nam đồng trước những biến động xã hội, thay đổi tỷ giá và lãi suất. Minh chứng rõ nét nhất là năm 2025 khi tình hình thế giới có nhiều biến động, thì nhu cầu vàng lại nóng hơn bao giờ hết…
Trước những thực tế xã hội đặt ra, ngày 10/10/2025, Nghị định 232/2025/NĐ-CP có hiệu lực nhằm tiến tới ổn định giá vàng trong nước và giảm chênh lệch với thế giới.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Nam, đây cũng là bước tiến thay đổi của nhà nước nhìn ra được vấn đề và thay đổi so với Nghị định 24/2012/NĐ-CP, nhưng còn xa mới tiến đến thị trường cạnh tranh. Muốn làm được thì nhà nước cần từng bước tạo lập thị trường vàng hiện đại, minh bạch để hướng tới ổn định giá và hội nhập với thế giới. Trong đó thị trường vàng phải hoạt động đúng nghĩa tức là thị trường tự do cạnh tranh thay vì quản lý cách cũ là bao cấp, xét duyệt.

Người dân xếp hàng mua vàng. Ảnh: Minh Châu
Từng bước tạo lập thị trường vàng hiện đại, minh bạch
Để tiệm cận đến thị trường vàng hiện đại, tự do cạnh tranh, PGS.TS Nguyễn Văn Nam cho rằng Việt Nam cần đáp ứng một số tiêu chí như sau:
1. Khi hội nhập thì cần phải nắm rõ về luật pháp, chấp nhận cuộc chơi theo luật quốc tế đã ban hành.
2. Vàng được kinh doanh tự do nhưng phải có hướng dẫn cụ thể của nhà nước để doanh nghiệp kinh doanh vàng nắm được và thực hiện đúng pháp luật. Nhà nước quản lý và kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên thanh tra để tránh tình trạng buôn lậu vàng, sản xuất vàng không đạt chất lượng. Xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm pháp luật, không buông lỏng quản lý, tránh tình trạng doanh nghiệp bất chấp pháp luật để kiếm lãi.
3. Ban hành công khai các bộ tiêu chẩn quy định về chất lượng và điều kiện kinh doanh vàng để người dân và doanh nghiệp nắm được. Trong thị trường tự do, người dân có quyền giám sát chất lượng để phản ánh khi doanh nghiệp làm sai. Chính phủ phải lắng nghe thị trường tiêu dùng và có chính sách điều chỉnh cho hợp lý.
4. Thành lập sàn giao dịch, đấu giá công khai trên thị trường. Hiện nay trên thế giới có nhiều mô hình có thể áp dụng như: Sàn Thượng Hải (SGE) hoặc Sàn vàng London (LBMA)… đảm bảo tính minh bạch, công khai và được giám sát chặt chẽ. Nhà đầu tư, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng có thể tham gia mua – bán theo giá niêm yết chung, giúp hình thành giá vàng chuẩn trong nước.
5. Đa dạng hóa nguồn cung để đáp ứng nhu cầu người dân, đồng thời có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động đứng đắn, tạo uy tín trong dân.
6. Tăng cường điều tiết thị trường bằng công cụ tài chính hiện đại như cho phép ký hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, chứng chỉ vàng) để hấp thụ biến động giá. Ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc vàng, đảm bảo chất lượng và tạo niềm tin cho người tiêu dùng.
Hiện nay do thực tế đất nước đang thoát dần cơ chế cũ nên phải đi từng bước chắc chắn. Việc bỏ độc quyền từ một doanh nghiệp sang một số doanh nghiệp như Nghị định mới bước đầu là phù hợp, nhưng về lâu dài thì phải có hàng trăm hàng nghìn doanh nghiệp mới tạo nên sức sống cho một ngành. Ngoài thị trường vàng, thì nhiều thị trường lớn như điện, nước, đất đai, tài nguyên… cũng cần phải kiến tạo thay vì hoạt động như hiện nay.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Văn Nam, Việt Nam cần có sự thay đổi từ ý thức, tư duy kinh tế thị trường rõ ràng thì mới xậy dựng được chiến lược dài hạn chứ không thể như hiện nay vấp vào đâu thì tìm cách gỡ ở đó.
Ông tin rằng việc tạo lập một thị trường vàng hiện đại, minh bạch không chỉ giúp ổn định giá cả trong nước, mà còn góp phần tăng niềm tin vào chính sách tiền tệ, giảm tình trạng đầu cơ, tích trữ vàng. Đây cũng là bước đi quan trọng để Việt Nam hội nhập sâu hơn với hệ thống tài chính toàn cầu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh biến động quốc tế ngày càng phức tạp.
