Học tập suốt đời trong kỷ nguyên mới
Kỷ nguyên mới có thể được hiểu là kỷ nguyên số - một đại xu thế phát triển toàn cầu, đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ giống như một cơn địa chấn chuyển xã hội công nghiệp hiện nay sang xã hội công nghệ hay xã hội số.

Ngày 25/11/2024, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, GS.TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi chuyên đề quan trọng về "Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam". Ảnh: TTXVN
Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng (giai đoạn 2016-2030). Sau đúng 40 năm đổi mới, đất nước đã tích lũy đủ thế và lực cho việc tiến vào giai đoạn phát triển. Nếu toàn Đảng, toàn dân nắm được những cơ hội mới, bắt kịp những xu thế vĩ mô của thời đại, Việt Nam sẽ là quốc gia phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh từng gửi gắm trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
5 vấn đề mấu chốt của việc tổ chức học tập suốt đời khi tiến vào kỷ nguyên mới
- Chặng đường đầu tiên đi vào kỷ nguyên mới là giai đoạn chuyển đổi số quốc gia.
- Bản chất của kỷ nguyên mới là kỷ nguyên chuyển xã hội công nghiệp (Industrial Society) sang xã hội công nghệ (Technologycal Society).
- Mẫu công dân trong kỷ nguyên mới là công dân số (Digital Citizen).
- Học tập suốt đời là hành trình hướng tới tri thức (The Journey to get knowledge), đồng thời là hành trình kiến tạo tri thức (The Journey for Creating knowledge).
- Phương thức học tập suốt đời là Bình dân học vụ số.
NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA KỶ NGUYÊN MỚI
Thuật ngữ "Kỷ nguyên mới" (New Era) mà Tổng Bí thư Tô Lâm nói tới được hiểu là một thời kỳ lịch sử của một quốc gia hoặc một dân tộc, đánh dấu sự chuyển biến về chất trong quá trình phát triển, hướng đến những mục tiêu quan trọng. Kỷ nguyên mới là kỷ nguyên vươn mình của dân tộc sau 40 năm đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mục tiêu của kỷ nguyên mới ở Việt Nam là xây dựng một quốc gia thịnh vượng, hùng cường và hạnh phúc.
Động lực của những bước đi chiến lược của kỷ nguyên mới là nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia.
Với cách hiểu trên đây, kỷ nguyên mới là kỷ nguyên số (Digital era hoặc Digital age) - một đại xu thế phát triển (Megatrend) toàn cầu, đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ giống như một cơn địa chấn chuyển xã hội công nghiệp hiện nay sang xã hội công nghệ (Technological Society) hay xã hội số (Digital Society).
Đặc trưng của Kỷ nguyên số
Đặc trưng có tính bao quát nhất là quá trình chuyển đổi số toàn cầu - đây là động lực chính, làm thay đổi tổng thể và toàn diện phương thức phát triển của xã hội.
Trên thế giới, lần đầu tiên hình thành một không gian ảo (Cyberspace), đan xen với không gian thực, có khả năng kết nối mạnh mẽ, vượt mọi giới hạn địa lý.
Công nghệ số trở thành trung tâm; mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng... đều được hỗ trợ và định hướng bởi công nghệ số.
Bên cạnh tài sản truyền thống, các quốc gia sẽ có tài sản số (Digital assets), tài sản mã hóa (Crypto assets), tài sản điện tử (Cryptocurrencies), tài sản kỹ thuật số duy nhất được lưu trữ trên blockchain và tài sản ảo (Virtual assets).
Kỷ nguyên số dựa trên 3 trụ cột là Chính phủ số, Văn hóa số và Công dân số.
Hai yếu tố cấu thành nên Kỷ nguyên số là kinh tế số và xã hội số. Toàn bộ hoạt động trong kỷ nguyên số đều phải dựa trên nền tảng số, giao thương và tổ chức trên Internet.
NHỮNG ÁP LỰC TỪ KỶ NGUYÊN SỐ ĐỐI VỚI VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN HỌC TẬP SUỐT ĐỜI VÀ GIÁO DỤC NGƯỜI LỚN
1. Mục tiêu tổng quát của việc học tập suốt đời và giáo dục người lớn trong kỷ nguyên số
Việc học tập suốt đời của mỗi người dân trong kỷ nguyên số cần hướng đến mục tiêu phát triển bản thân mỗi người một cách toàn diện, bao gồm việc hoàn thiện những kiến thức của thời đại số, những kỹ năng số để thích ứng với cuộc sống xã hội số, với nghề nghiệp trong nền kinh tế số.
Cùng với việc trau dồi tri thức số, con người phải tu dưỡng để có trách nhiệm và những phẩm chất đạo đức mà quốc gia chuyển đổi số đặt ra.
2. Đối tượng cần ưu tiên trong học tập suốt đời giai đoạn chuyển đổi số
Đối tượng chính trong học tập suốt đời trong kỷ nguyên số là toàn bộ những cán bộ, công chức, nhân viên, đảng viên và các thành viên của các tổ chức xã hội, các đoàn thể và hội quần chúng thuộc hệ thống chính trị các cấp, công nhân và nông dân trong lĩnh vực lao động công nghiệp và nông nghiệp.
Tổng hòa những đối tượng này hợp thành nguồn nhân lực tại chỗ được đào tạo, huấn luyện, giáo dục để đạt những mục tiêu cụ thể sau đây:
- Cập nhật và nâng cao những kiến thức chuyên môn, những kỹ năng mềm và kỹ năng số để không bị lạc hậu với thời đại.
- Học tập tích cực, lấy tự học làm cốt, lấy tu dưỡng đạo đức làm cứu cánh, rèn luyện tư duy sáng tạo và năng lực làm chủ công nghệ, phấn đấu để có sự phát triển hài hòa đạo đức công dân và năng lực của người công dân hữu ích trong xã hội.
- Học tập suốt đời để có được tư duy sáng tạo, có cơ hội tìm kiếm việc làm, khởi nghiệp thành công, cải thiện đời sống, đóng góp nhiều cho xã hội. Mỗi cá nhân phải là một công dân số. Mỗi tổ chức, đơn vị công tác phải là một lực lượng lao động tại chỗ chất lượng cao, góp phần tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Những thách thức mà việc học tập suốt đời và giáo dục người lớn phải vượt qua
Sự mong manh của thế giới hiện đại
Thế giới hiện đại được coi là một thế giới biến động khôn lường, thay đổi nhanh chóng, quá nhiều những thách thức không dễ vượt qua. Nếu không đủ sức đối đầu thì số phận của cá nhân, của cộng đồng và của quốc gia sẽ an bài. Có 3 thách thức mang tính toàn cầu:
Chủ nghĩa bảo hộ: Chính sách kinh tế mà Chính phủ áp dụng để hạn chế hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài, thể hiện cụ thể là đánh thuế quan, áp đặt hạn ngạch nhập khẩu, đưa ra những quy định cao về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn, trợ cấp cho các ngành công nghệ nội địa dưới nhiều hình thức như khoản vay ưu đãi, giảm thuế... để giảm sự cạnh tranh từ nước ngoài.
Tình trạng giảm tốc và bất ổn trong kinh tế thế giới: Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm do sự bất ổn địa chính trị và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng.
Lạm phát dai dẳng, giá cả hàng hóa và năng lượng không ổn định; Các chuỗi cung ứng toàn cầu bị phân mảnh, ảnh hưởng xấu tới đầu tư và sản xuất.
Căng thẳng địa chính trị và xung đột kéo dài, nhất là ở khu vực Ukraine, Trung Đông, trực tiếp đe dọa an ninh toàn cầu.
Biến đổi khí hậu và thảm họa tự nhiên gây thiệt hại nặng nề cho kinh tế và sản xuất, áp lực chuyển đổi năng lượng ngày càng lớn, đòi hỏi các quốc gia phải có sự cam kết về phát triển kinh tế xanh và trung hòa carbon.
Những thách thức việc học tập suốt đời khi đi vào kỷ nguyên số
- Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với việc phát triển mạnh mẽ các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, dữ liệu lớn, điện toán đám mây... đã vẽ lại bức tranh việc làm toàn cầu.
Diễn đàn kinh tế thế giới 2025 cảnh báo rằng, có 85.000.000 việc làm sẽ bị thay thế bởi AI, khoảng 97.000.000 việc làm mới sẽ được tạo ra, trong đó có quá nhiều việc làm (và nghề mới) phải đào tạo ở bậc đại học. Những người lao động bị thay thế nếu không lo học để lấp đầy khoảng cách tri thức đang thiếu hụt (Knowledge Gap) sẽ chắc chắn rơi vào thất nghiệp. Những nghề hiện nay sẽ nhanh chóng thay đổi, dẫn đến hiện tượng mất việc làm của nhiều người, trước hết là nhân viên lễ tân trong khách sạn, hướng dẫn viên du lịch, lái xe khách, thu ngân trong nhà hàng.
- Giai đoạn dân số vàng ở Việt Nam và ở một số quốc gia sắp kết thúc. Hiện tượng già hóa dân số sẽ làm tăng số lượng dân số phụ thuộc. Những người về hưu và những người cao tuổi đang có sức lực thể chất và trạng thái minh mẫn về trí tuệ mà không học thêm, không có việc làm để tăng thu nhập, không có kiến thức để duy trì sức khỏe sẽ nhanh chóng làm tăng gánh nặng của xã hội do các khoản chi phí cho tuổi già như phải phát triển nhà dưỡng lão, tăng trợ cấp khó khăn cho người cao tuổi, dịch vụ y tế cũng từ đó phải mở rộng.
Digital Native: Thuật ngữ này dùng để chỉ những người lớn lên trong kỷ nguyên công nghệ số, có khả năng thành thạo trong sử dụng máy tính Internet, các thiết bị di động và các kỹ thuật số ngay từ nhỏ; Họ thông thạo công nghệ một cách tự nhiên, có tư duy đa nhiệm, giỏi giao tiếp kỹ thuật số, nhanh chóng tìm được những thông tin trực tuyến, khả năng kết nối và chia sẻ thông tin trên các mạng xã hội rất cao.
- Về mặt nhân khẩu học, thế hệ Z, Alpha, Beta nếu vẫn tiếp tục học trong hệ thống trường lớp truyền thống, vẫn học theo nội dung và phương pháp của sách giáo khoa vốn dùng cho thế hệ X, Y thì chúng mất đi năng lực số cốt lõi mà thế kỷ 21 đòi hỏi.
Trên thế giới, tại các quốc gia phát triển, người ta coi thế hệ Z, Alpha, Beta như những công dân mà bẩm sinh đã có khả năng tiếp cận công nghệ số (Digital Native).
Một nền giáo dục lạc hậu về kỹ thuật số do chuyển đổi số chậm chạp có thể biến những Digital Native thành những Digital immigrants (Người nhập cư kỹ thuật số) - người sinh ra trước thời đại kỹ thuật số và phải học cách sử dụng công nghệ này một cách vất vả.

Lười học và khó tiếp nhận thời đại được gọi chung cho lớp người với khái niệm mới mẻ trong xã hội số.
- Bên cạnh những thách thức của kỷ nguyên số kể trên, giáo dục người lớn và việc học tập suốt đời của họ có nhiều rào cản khá nguy hại.
Rào cản đầu tiên cần nói tới là tâm lý ngại học và sự lười học. Đó là những người bằng lòng với đời sống hiện tại, không có ham muốn đổi mới, không có hoài bão, thăng tiến trong công việc.
Đi vào kỷ nguyên số, những ai lười học đều rơi vào tình trạng kiến thức chuyên môn - nghề nghiệp, sự hiểu biết về xã hội đều bị hổng, càng ngại học thì khoảng cách giữa tri thức đã có, so với tri thức mới về lao động và đời sống càng dãn ra, con người trở nên lạc hậu, bảo thủ, cố hữu.
Những người này dễ rơi vào tự ti về khả năng của bản thân, song lại sĩ diện, dấu dốt và hình thành những thói quen xấu như hay tìm cách trì hoãn công việc, thiếu kỷ luật, gian lận trong học tập, thi cử.
Rào cản thứ hai là mù công nghệ số. Những người mù về công nghệ số thường mất đi vô vàn những cơ hội trong học tập, trong kết nối xã hội và chăm sóc sức khỏe bản thân. Thiệt thòi của người mù công nghệ số rõ nhất là bị bỏ lại phía sau trong xã hội số. Họ dần dễ bị tổn thương, trở thành nạn nhân của nhiều vụ lừa đảo, tin giả với các nội dung độc hại.
Mặt khác, họ mất khả năng giao dịch số, đứng ngoài những hoạt động trực tuyến, đặc biệt là sử dụng dịch vụ công; hạn chế sự tham gia dân chủ trong xã hội, rất khó tìm kiếm việc làm.
Rào cản thứ ba là mù ngoại ngữ. Những người không có năng lực sử dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, sẽ gặp nhiều trở ngại trong các hoạt động của xã hội chuyển đổi số.
Hạn chế cơ hội việc làm và phát triển thu nhập do mất lợi thế cạnh tranh trong thị trường lao động, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ trở thành một khó khăn lớn.
Các tập đoàn đa quốc gia thường không tuyển người thiếu khả năng dùng đa ngoại ngữ.
Trong kinh doanh, họ sẽ bỏ lỡ nhiều khách hàng nước ngoài; không thể tham gia công việc cần song ngữ; giảm khả năng hội nhập và kết nối; khó hiểu biết và làm quen với nhiều nền văn hóa.
Trong dịch thuật và học tập, họ dựa dẫm vào AI sẽ rất dễ sinh lười biếng và mất đi óc sáng tạo.

Ứng dụng công nghệ trở nên phổ biến và nhanh chóng thay đổi cách thức giao dịch trong các chợ truyền thống tại Việt Nam.
Những rào cản có tính khách quan khác. Ở Việt Nam, việc học tập suốt đời của không ít người khi xã hội chuyển đổi số, hướng đến kỷ nguyên số thường gặp các rào cản sau đây:
- Những người thu nhập thấp sẽ không thể tự trang bị những thiết bị thông minh để học tập và tự học.
- Tài nguyên giáo dục mở còn ít, không thỏa mãn việc học tập theo hướng cá nhân hóa.
- Sự thay đổi công nghệ quá nhanh, kiến thức mau lỗi thời, bị lão hóa, chương trình học cho người lớn không theo kịp tốc độ thay đổi công nghệ và nhu cầu của thị trường lao động.
- Người lao động quá tải với việc sản xuất, kinh doanh; doanh nghiệp không có kế hoạch cần thiết để người lao động có thời gian học tập.
NHỮNG GIẢI PHÁP TỔ CHỨC VIỆC HỌC TẬP SUỐT ĐỜI TRONG NHÂN DÂN TRONG HÀNH TRÌNH TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN MỚI
1. Giải pháp I. Nâng cao nhận thức của toàn dân về ý nghĩa của việc học tập suốt đời để có được hành trang tri thức tiến bước vào kỷ nguyên số:
- Tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong xã hội về những vấn đề cơ bản như xu thế chuyển đổi số trên toàn cầu; những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phát triển các quốc gia trong kỷ nguyên số; những yêu cầu đặt ra trong chiến lược xây dựng xã hội học tập trong kỷ nguyên số...
- Toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức và người lao động trong hệ thống chính trị cũng như trong các tổ chức xã hội đều phải nghiên cứu quán triệt các văn kiện của Đảng và Chính phủ về chuyển đổi số quốc gia. Chí ít cũng phải thông tỏ về quan điểm chỉ đạo và các chỉ số phát triển trong các văn kiện sau:
Nghị quyết 52-NQ/TW (27/9/2019) của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.
Chỉ thị 16/CT-TTg (4/5/2017) của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0.
Quyết định 749/QĐ-TTg (3/6/2020) của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia.
Quyết định 1373/QĐ-TTg (30/7/2021) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030.
Quyết định 1658/QĐ-TTg (01/10/2021) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt "Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050".
Nghị quyết 57-NQ/TW (22/12/2024) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Nghị quyết 71-NQ/TW (22/8/2025) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Rèn luyện kỹ năng xã hội số càng sớm càng tốt đối với học sinh, sinh viên. Ảnh: TTH
2. Giải pháp II. Xây dựng cơ sở hạ tầng và đổi mới sáng tạo những mô hình trường học chuyển đổi số
- Đối với giáo dục phổ thông
Phát triển các mô hình trường học xanh, trường học thông minh, trường học hạnh phúc cho cả 3 cấp học (chú ý đặc biệt cho việc đầu tư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng khó khăn về kinh tế).
Đưa chương trình dạy ngoại ngữ vào từ lớp Một (Nếu đưa vào hệ thống giáo dục mẫu giáo thì càng tốt).
Ứng dụng mềm dẻo và sáng tạo công nghệ số, kể cả AI vào giảng dạy từ tiểu học.
Ngay từ tiểu học, chú ý rèn luyện những kỹ năng thực hiện hành vi đạo đức số, hành vi chấp hành luật lệ số, để an toàn trong môi trường số.
- Đối với giáo dục nghề nghiệp
Nâng cấp một số trường cao đẳng nghề thành trường đại học đào tạo những nghề mà trên thế giới yêu cầu phải do trường đại học đảm nhiệm.
Những trường đào tạo trình độ "Trung cấp nghề" phải triệt để chuyển đổi số và chuyển cho các tỉnh, thành phố quản lý.
- Đối với giáo dục đại học
Chuyển đổi số toàn diện trong quản trị và điều hành, đặc biệt là xây dựng cơ sở dữ liệu lớn (Big Data) và ứng dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích, dự đoán xu hướng, hỗ trợ và ra quyết định trong quản trị và tuyển sinh. Bảo đảm hệ thống mạng, máy chủ, bảo mật dữ liệu, hoạt động ổn định.
Xây dựng mô hình học tập linh hoạt, kết hợp học trực tuyến với trực tiếp (Blended learning), cho phép sinh viên học mọi lúc, mọi nơi, phát huy tính tự học và cá nhân hóa lộ trình học tập.
Gắn kết nghiên cứu với thực tiễn, thực hiện mô hình Triple Helix - Hợp tác 3 bên "nhà trường - doanh nghiệp - chính phủ" để kết nối hoạt động nghiên cứu với sản xuất và nhu cầu nhân lực,
Mở rộng hiện diện các trường đại học quốc tế: Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các trường đại học quốc tế mở chi nhánh, trung tâm nghiên cứu hoặc triển khai mô hình liên kết đào tạo chất lượng cao.
Tự chủ đại học về thực chất, cụ thể hóa quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học đối với việc tuyển dụng, tài chính, học thuật, cho phép trường tự quyết định và chịu trách nhiệm trước xã hội.
Xây dựng các vườn ươm tài năng, đào tạo những chuyên gia hàng đầu cho các lĩnh vực khoa học, công nghệ.
- Đối với giáo dục người lớn
Xây dựng và phát triển khoa học về phương pháp giáo dục người lớn (Andragogy), đưa chương trình giảng dạy này vào khoa giáo dục học và tâm lý học ở các trường sư phạm - nơi mà lâu nay chỉ giảng dạy khoa học về phương pháp giáo dục thế hệ trẻ (Pedagogy).
Do không đào tạo về Andragogy, hiện nay ở Việt Nam không có chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh vực giáo dục người lớn, nghĩa là hiện chỉ có những giáo viên giáo dục chính quy, mà không có những chuyên gia giáo dục người lớn như những Trainer - cán bộ huấn luyện trong giáo dục công nghiệp và quản lý, những Tutor Organiser - cán bộ tổ chức giảng dạy cho người lớn, những Training officer - cán bộ quản lý huấn luyện nghề trong các tổ chức.
Phát triển mạnh các trường đại học mở để giúp người lớn có nhu cầu học vấn đại học cần cho vị trí làm việc của họ.
Các trường đại học mở sẽ là nơi cung ứng các dịch vụ giáo dục cho người lớn, phổ cập các dịch vụ này để đáp ứng nhiều nhu cầu học tập của người lớn đang hoạt động trong các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau thuộc nền kinh tế quốc dân.
Các trường đại học là nơi có thể cung ứng những học liệu (tài nguyên giáo dục mở), giúp vào việc cá nhân hóa trong học tập suốt đời của người lớn. Trường đại học có thể tạo ra các khóa học, lớp học trực tuyến giúp cho người lớn có thể học tập thuận lợi.
Khuyến khích các tập đoàn sản xuất, các doanh nghiệp lớn, các công ty xuyên quốc gia mở các trường đại học, tự đào tạo mới và đào tạo lại nhân lực của họ. Đồng thời, họ cũng có thể đào tạo theo hợp đồng với những tổ chức có nhu cầu nhân lực.
Chuyển đổi số triệt để và nhanh chóng đối với các Trung tâm học tập cộng đồng và các thiết chế văn hóa - giáo dục có chức năng hỗ trợ người lớn học tập suốt đời như Thư viện, nhà văn hóa, câu lạc bộ, các cơ sở giáo dục nghề ở địa phương.
Người lớn bao gồm những cán bộ, đảng viên, công chức, cán bộ kỹ thuật là nguồn nhân lực tại chỗ, cần sớm được phổ cập những năng lực số, kỹ năng số và đạo đức số trong giai đoạn 2026-2030. Tất cả những người thuộc nhóm này phải trở thành công dân số một cách bắt buộc để họ thành nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế số và là công dân tiên tiến trong xã hội số.
3. Giải pháp III. Tạo điều kiện để thể chế hóa những giải pháp mong muốn I và II
- Đại hội Đảng lần thứ XIV cần xác định rõ những bước đi cụ thể vào kỷ nguyên số với những chỉ số phát triển giai đoạn 2026-2030 phải đạt. Đây là điều kiện cốt lõi để xây dựng thể chế cho chiến lược phát triển đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
- Căn cứ đường lối và quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIV của Đảng hướng toàn xã hội vươn mình tới một mô hình quốc gia thịnh vượng, hùng mạnh và hạnh phúc, Quốc hội khóa XVI (nhiệm kỳ 2026-2031) sẽ sửa đổi những điều về giáo dục trong Hiến pháp, sau đó Quốc hội sẽ thông qua Luật Giáo dục trong kỷ nguyên số và Luật Học tập suốt đời.
Nên lùi lại thời gian thích hợp để sửa đổi Luật giáo dục, bởi vội vã làm trước Đại hội XIV của Đảng và trước việc bầu cử Quốc hội khóa XVI sẽ rất dễ tạo nên sự bất cập của giáo dục so với nhiệm vụ chiến lược do Đại hội Đảng quyết định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện của Đảng CSVN
1. Nghị quyết 52-NQ/TW (27/9/2019) về một số chủ trương, chính sách tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.
2. Nghị quyết 57-NQ/TW (22/12/2024) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Nghị quyết 71-NQ/TW (22/8/2025) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Văn kiện của Chính phủ
4. Chỉ thị 16/CT-TTg (04/5/2017) về tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.
5. Quyết định 749/QĐ-TTg (3/6/2020) về chương trình chuyển đổi số quốc gia.
6. Quyết định 1373/QĐ-TTg (30/7/2021) của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030.
7. Quyết định 1658/QĐ-TTg (1/10/2021) về "Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050".
Tài liệu khoa học
8. François Houtart (2000) La mondialisation, Edision Fidélité, No 54, 15 Mars.
9. Joseph E. Stighiz & Bruce C.Greenwald (2017) Xây dựng xã hội học tập - Cách tiếp cận mới cho tăng trưởng và tiến bộ xã hội. Nhà XB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
10. Mai Văn Tỉnh (2018) - Xu thế toàn cầu của giáo dục mở trong thế kỷ XXI. Hội thảo: "Hệ thống giáo dục mở trong bối cảnh tự chủ giáo dục và hội nhập quốc tế" (Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng Việt Nam), Hà Nội, tr.5-82.
11. Lê Trường Tùng (2020) - Gỡ bỏ các rào cản để phát triển xã hội học tập - Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Những năng lực cốt lõi của công dân học tập" tr89-92.
12. Trương Tiến Tùng (2020). Từ công dân số đến công dân học tập. Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Những năng lực cốt lõi của công dân học tập", tr.50-54.
Link nội dung: https://congdankhuyenhoc.vn/hoc-tap-suot-doi-trong-ky-nguyen-moi-179251124151931521.htm

